Chỉ rõ lối "tư duy nhiệm kỳ" gây ra hệ lụy tiêu cực với những biểu hiện tinh vi, vụ lợi

ANTD.VN - Trong bộ hồ sơ hướng dẫn tổng kết công tác năm 2018 của cán bộ, đảng viên theo quy định mới thì biểu hiện thứ 28 là: Có “tư duy nhiệm kỳ”, chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích. Đây là một trong 29 biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, cần được nhận diện và khắc phục. 

Lần đầu tiên Tổng Bí thư - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhắc đến tư duy nhiệm kỳ tại Hội nghị phổ biến Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa XI (ngày 10-10-2011) như lời cảnh báo, nhắc nhở cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng phải phòng, chống tư duy nhiệm kỳ như một căn bệnh, tệ nạn trong xã hội. Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (tháng 10-2016) xác định tư duy nhiệm kỳ là một biểu hiện của suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. 

Chỉ rõ lối "tư duy nhiệm kỳ" gây ra hệ lụy tiêu cực với những biểu hiện tinh vi, vụ lợi ảnh 1Vấn đề “tư duy nhiệm kỳ” lần đầu tiên được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc đến từ Hội nghị Trung ương 3 khóa XI

Hệ lụy tiêu cực to lớn và lâu dài đối với đất nước

Trong phiên chất vấn của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp Quốc hội giữa tháng 6-2017, đại biểu Nguyễn Thị Mai Hoa đặt câu hỏi với Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình rằng: “Hiện nay tư duy nhiệm kỳ đã và đang tồn tại ở các ngành, các cấp và có thể thấy rất rõ. Điều này dẫn tới tình trạng có sự cắt khúc trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng cấp, sự phân tán trong nguồn lực đầu tư, đầu tư kém hiệu quả, lãng phí nguồn lực. Chính phủ có giải pháp nào để khắc phục tình trạng trên, hạn chế dần và tiến tới xóa bỏ được tư duy nhiệm kỳ ở trong các ngành, các cấp?”. 

Dư luận đang rất bức xúc trước sự phổ biến của lối tư duy nhiệm kỳ trong lãnh đạo, quản lý, biểu hiện dưới mọi hình thức ngày càng đa dạng, tinh vi và có mục tiêu giống nhau là chỉ tập trung vào các hoạt động thu lợi ích tối đa, trước mắt cho bản thân, gia đình và nhóm lợi ích của mình, thể hiện rõ nhất trong các quyết định liên quan đến công tác quản lý kinh tế, đầu tư công, quản lý quy hoạch và đất đai; công tác cán bộ…

Tư duy nhiệm kỳ khiến nhiều quy hoạch, nhất là quy hoạch sử dụng đất, được lập và thông qua dễ dãi, chất lượng thấp; không gắn với nguồn lực và phi thực tế, đồng thời, dễ dàng bị buông lỏng quản lý, thậm chí bị điều chỉnh theo ý chí chủ quan và sự “dẫn dắt” của một vài cá nhân trong mỗi nhiệm kỳ. Tư duy nhiệm kỳ là cội nguồn của nhiều quyết định đầu tư công thiếu trách nhiệm và lạm quyền, ưu tiên mục tiêu trước mắt; sự lạm phát các dự án được chỉ định thầu, “né” thầu, cũng như tình trạng tạm ứng vay ngân sách và nợ đọng xây dựng cơ bản “ăn thâm” vào dự toán ngân sách đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Những dự án đầu tư có thể được phê duyệt dễ dàng khi kỳ vọng mang lại các khoản “bôi trơn” và “lại quả” hậu hĩnh cho cán bộ có thẩm quyền, bất chấp nguồn vốn và hiệu quả cho dự án đến đâu. Tư duy nhiệm kỳ khiến việc quy hoạch, bổ nhiệm và trọng dụng cán bộ thường chuộng trật tự ưu tiên “nhất hậu duệ, nhì phả hệ, ba quan hệ, tư tiền tệ, năm trí tuệ”; khiến  nhiều quy trình, tiêu chuẩn chất lượng bị vô hiệu hóa hoặc hình thức hóa… dẫn đến tổ chức thêm cồng kềnh và tạo áp lực cho cán bộ tìm mọi cách “đầu tư” và tham nhũng “lấy thu bù chi” do mất tiền chạy chức, chạy quyền… 

Có thể nói, tư duy nhiệm kỳ thường gắn với chủ nghĩa cơ hội, bệnh thành tích giả tạo và lợi ích nhóm, nhưng được ngụy trang bằng những lời hoa mỹ và nhân danh lợi ích công, bất chấp các nguyên tắc tổ chức, pháp luật và mọi hệ lụy tiêu cực to lớn và lâu dài có thể có cho đơn vị và đất nước. Cụ thể, tư duy nhiệm kỳ làm đảng viên xa rời lý tưởng và đối lập với lợi ích của Đảng, của dân tộc, bùng nổ tệ nạn phe cánh, quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí tài sản công và các nguồn lực đầu tư xã hôi; trực tiếp làm tăng chi phí, nợ đọng ngân sách và nợ công, làm tổn hại về uy tín, năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước; đồng thời, làm tăng bất công, bất bình và suy giảm sự đồng thuận, đạo đức và gắn kết xã hội; làm mất uy tín, giảm hiệu quả lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và suy giảm lòng tin vào chế độ…

Chỉ rõ lối "tư duy nhiệm kỳ" gây ra hệ lụy tiêu cực với những biểu hiện tinh vi, vụ lợi ảnh 2Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong

Nhận diện và khắc phục như thế nào?

Dư luận đòi hỏi cần nhận diện và khắc phục tư duy nhiệm kỳ, nhằm tăng cường quản lý nhà nước thống nhất theo hướng kiến tạo và sự chỉ đạo điều hành từ Trung ương đến địa phương, khắc phục tình trạng quản lý chia cắt, cục bộ và tính cát cứ địa phương, các xung đột lợi ích, nhất là tình trạng gia đình trị và chèn ép người có tài, có đức…

Bên cạnh đó, dư luận đòi hỏi cần có giải pháp đồng bộ và triệt để, coi trọng chống tư duy nhiệm kỳ ngay trong đội ngũ cán bộ làm công tác cán bộ và công tác tư pháp; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ; đẩy mạnh việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; giám sát nghiêm ngặt trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, nâng cao khả năng tự đề kháng, chủ động phòng, chống tư duy nhiệm kỳ gắn với phòng, chống tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm, trước hết là trong bộ phận cán bộ chủ chốt, nhất là người đứng đầu.

Dư luận đòi hỏi công tác cán bộ cần bảo đảm “tìm người tài chứ không tìm người nhà”, bám sát các tiêu chí và quy chuẩn hóa kết quả hoàn thành nhiệm vụ, hiệu quả công việc, tránh hời hợt, hình thức và không thực chất; kiên quyết không đưa những cán bộ thoái hóa biến chất, cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực vào quy hoạch. Người đứng đầu chi bộ và cơ quan cần công tâm, gạt bỏ tư tưởng độc đoán chuyên quyền, cá nhân chủ nghĩa và đề cao trách nhiệm trong nhận xét, giới thiệu, thẩm định, xét duyệt, bổ nhiệm và đánh giá cán bộ. Cán bộ được ghi nhận công lao và bảo vệ khỏi áp lực của chủ nghĩa thành tích và tư tưởng dĩ hòa vi quý, an phận thủ thường, nhất là người sắp hết nhiệm kỳ. Việc lấy phiếu tín nhiệm cần được mở rộng, làm thường xuyên, bảo đảm sự chính xác; tăng cường sự minh bạch và dân chủ trong giám sát xã hội đối với cán bộ và đạo đức hóa bộ máy lãnh đạo; tạo áp lực mạnh, thay thế nhanh cán bộ không đủ khả năng, trách nhiệm cho vị trí đang đảm nhận; thực hành văn hóa chủ động từ chức trong hệ thống chính trị… 

Tư duy nhiệm kỳ thường gắn với chủ nghĩa cơ hội, bệnh thành tích giả tạo và lợi ích nhóm, nhưng được ngụy trang bằng những lời hoa mỹ và nhân danh lợi ích công, bất chấp các nguyên tắc tổ chức, pháp luật và mọi hệ lụy tiêu cực to lớn và lâu dài có thể có cho đơn vị và đất nước.