Gợi ý trả lời cuộc thi viết “Tìm hiểu Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam” (4)

ANTĐ - Hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Tuy có nhiều nhược điểm nhưng Hiến pháp năm 1980 là một cái mốc quan trọng trong lịch sử lập hiến của nước ta.

Câu 1 (tiếp theo)

HIẾN PHÁP NĂM 1980

1. Hoàn cảnh ra đời

Thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc ta. Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành trong phạm vi cả nước. Nước ta đã hoàn toàn độc lập, tự do là điều kiện thuận lợi để thống nhất hai miền Nam - Bắc, đưa cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trước tình hình đó, tháng 9/1975, Hội nghị lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã xác định nhiệm vụ quan trọng hàng đầu lúc này là phải hoàn thành việc thống nhất nước nhà. Nghị quyết của Hội nghị đã nhấn mạnh: “Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng tha thiết bậc nhất của đồng bào cả nước, vừa là quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam...”.

Đồng chí Trường Chinh - Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban dự thảo Hiến pháp 1980

Quốc hội chung của cả nước đã bắt đầu kỳ họp đầu tiên của mình vào ngày 25/6/1976 và kéo dài đến ngày 03/7/1976. Ngày 02/7/1976 Quốc hội đã thông qua các nghị quyết quan trọng, trong đó có quyết định trong khi chưa có Hiến pháp mới, tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta hoạt động dựa trên cơ sở Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đồng thời Quốc hội khoá VI cũng đã ra Nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1959 và thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp gồm 36 người do đồng chí Trường Chinh - Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội làm Chủ tịch.

Sau một năm rưỡi làm việc khẩn trương, Uỷ ban đã hoàn thành dự thảo. Bản dự thảo được đưa ra cho toàn dân thảo luận. Tháng 9/1980, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp kỳ đặc biệt để xem xét và cho ý kiến bổ sung, sửa chữa dự thảo trước khi trình Quốc hội thảo luận, thông qua. Sau một thời gian thảo luận, Quốc hội khoá VI tại kỳ họp thứ 7 ngày 18/12/1980 đã nhất trí thông qua Hiến pháp.

2. Nội dung cơ bản

Hiến pháp năm 1980 bao gồm Lời nói đầu, 147 Điều chia làm 12 chương.

Lời nói đầu của Hiến pháp khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, ghi nhận những thắng lợi vĩ đại mà nhân dân Việt Nam đã giành được trong Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai. Lời nói đầu còn xác định những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong điều kiện mới mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đề ra và nêu lên những vấn đề cơ bản mà Hiến pháp năm 1980 đề cập.

Chương I quy định chế độ chính trị của Nhà nước ta gồm 14 Điều (từ Điều 1 đến Điều 14) bao gồm các vấn đề cơ bản sau đây:

- Xác định bản chất giai cấp của Nhà nước ta là Nhà nước chuyên chính vô sản. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản (Điều 2).

- Khác với các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 1980 quy định các quyền dân tộc cơ bản bao gồm 4 yếu tố: Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Đây là một phạm trù pháp luật quốc tế do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng dựa trên những khái niệm chung về quyền tự nhiên của con người.

- Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1980 thể chế hoá vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội vào một Điều của Hiến pháp (Điều 4). Sự thể chế hoá này thể hiện sự thừa nhận chính thức của Nhà nước về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiến pháp cũng quy định: Các tổ chức của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật.

- Hiến pháp còn xác định vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội quan trọng khác như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 9), Tổng Công đoàn Việt Nam (Điều 10). Đây cũng là lần đầu tiên vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội này được quy định trong Hiến pháp.

- Với Hiến pháp năm 1980, quan điểm về quyền làm chủ tập thể của Đảng ta đã được thể chế hoá (Điều 3 Hiến pháp).

- Hiến pháp năm 1980 tiếp tục khẳng định chính sách đoàn kết dân tộc của Nhà nước ta: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Nhà nước bảo vệ, tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi miệt thị, chia rẽ dân tộc” (Điều 5).

- Hiến pháp năm 1980 kế tục tư tưởng của Hiến pháp năm 1959 khi nhấn mạnh quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Điểm mới là lần đầu tiên Hiến pháp năm 1980 quy định nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: “Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” (Điều 12).

Chương II - Chế độ kinh tế, gồm 22 Điều (từ Điều 15 đến Điều 36).

Chương này quy định những vấn đề cơ bản trong lĩnh vực kinh tế như mục đích của chính sách kinh tế, các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các nguyên tắc lãnh đạo nền kinh tế quốc dân. Nếu như Hiến pháp năm 1959 quy định đất đai có thể thuộc sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân thì Hiến pháp năm 1980 đã quốc hữu hoá toàn bộ đất đai (Điều 19). Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: Thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động (Điều 18).

Chương III - Văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật, bao gồm 13 Điều (từ Điều 37 đến Điều 49).

Đây là một chương hoàn toàn mới so với các bản Hiến pháp trước đây. Chương này quy định mục tiêu của cách mạng tư tưởng và văn hoá là xây dựng nền văn hoá mới có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân, xây dựng con người mới có ý thức làm chủ tập thể, yêu lao động, quý trọng của công, có văn hoá, có kiến thức khoa học kỹ thuật, có sức khỏe, yêu nước xã hội chủ nghĩa và có tinh thần quốc tế vô sản (Điều 37). Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng chỉ đạo sự phát triển của xã hội Việt Nam (Điều 38).

Nhà nước ta chủ trương bảo vệ và phát triển những giá trị văn hoá và tinh thần của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới, chống các tư tưởng phong kiến lạc hậu, tư sản phản động và bài trừ mê tín dị đoan. Chương III còn xác định chính sách về khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật và các công tác thông tin báo chí, xuất bản, thư viện, phát thanh, truyền hình...

Chương IV - Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bao gồm 3 Điều (từ Điều 50 đến Điều 52).

Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, vấn đề bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa được xây dựng thành một chương riêng trong Hiến pháp. Điều này xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề phòng thủ đất nước. Bảo vệ và xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng và Nhà nước tồn tại song song trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, có sự gắn bó và tương hỗ lẫn nhau.

Hiến pháp năm 1980 xác định đường lối quốc phòng của Nhà nước là xây dựng một nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại trên cơ sở kết hợp xây dựng Tổ quốc với bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa (Điều 50); xác định nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang nhân dân (Điều 51); quy định thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chăm lo công nghiệp quốc phòng, huy động nhân lực, vật lực nhằm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước; tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định (Điều 52).

Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bao gồm 29 Điều (từ Điều 53 đến Điều 81).

Kế tục và phát triển Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 một mặt ghi nhận quyền và nghĩa vụ của công dân đã được quy định trong các bản Hiến pháp trước đây, mặt khác bổ sung thêm một số quyền và nghĩa vụ mới phù hợp với giai đoạn mới của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa như quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội (Điều 56); quyền được khám và chữa bệnh không phải trả tiền (Điều 61), quyền có nhà ở (Điều 62), quyền được học tập không phải trả tiền (Điều 60), quyền của các xã viên hợp tác xã được phụ cấp sinh đẻ (Điều 63).

Hiến pháp quy định thêm một số nghĩa vụ mới của công dân: Công dân phải trung thành với Tổ quốc (Điều 76); ngoài bổn phận làm nghĩa vụ quân sự, công dân còn phải tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân; ngoài nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỉ luật lao động, tôn trọng những quy tắc sinh hoạt xã hội, công dân còn phải bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, giữ gìn bí mật nhà nước; ngoài nghĩa vụ đóng thuế, công dân còn phải tham gia lao động công ích. Tuy nhiên, một số quyền mới được bổ sung trong Hiến pháp năm 1980 không phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước nên không có điều kiện vật chất đảm bảo thực hiện.

Chương VI - Quốc hội, bao gồm 16 Điều (từ Điều 82 đến Điều 97).

Kế thừa Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 xác định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, những mục tiêu phát triển kinh tế và văn hoá-xã hội, những quy tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Quốc hội thành lập các cơ quan nhà nước tối cao như bầu ra Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng Bộ trưởng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước... (Điều 82 và 83).

Chương VII - Hội đồng Nhà nước, bao gồm 6 Điều (từ Điều 98 đến Điều 103).

Đây là một chương mới so với Hiến pháp năm 1959. Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 98). Hội đồng Nhà nước vừa thực hiện chức năng của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội vừa thực hiện chức năng của Chủ tịch nước. Vì vậy, thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước tương đương với thẩm quyền của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và thẩm quyền của Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1959 với những nhiệm vụ và quyền hạn rất lớn (Điều 100).

Chương VIII - Hội đồng Bộ trưởng, bao gồm 9 Điều (từ Điều 104 đến Điều 112).

Theo Điều 104 Hiến pháp năm 1980, Hội đồng Bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vị trí như Hội đồng Chính phủ trong Hiến pháp năm 1959. Tuy nhiên, Hội đồng Bộ trưởng về tính chất không hoàn toàn giống như Hội đồng Chính phủ. Hội đồng Chính phủ theo quy định của Hiến pháp năm 1959 là "cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa".

Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1980 quy định Hội đồng Bộ trưởng "là cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất". Với quy định này chúng ta thấy tính độc lập của Chính phủ trong quan hệ với Quốc hội bị hạn chế.

Chương IX  - Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, bao gồm 14 Điều (từ Điều 113 đến Điều 126).

Tại chương này, Hiến pháp quy định về phân cấp hành chính ở nước ta, xác định vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Về phân cấp đơn vị hành chính, nước ta có ba cấp hành chính. Đó là tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương; huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh và thị xã; xã, phường, thị trấn. Khác với Hiến pháp năm 1959 khu tự trị được bãi bỏ (theo Nghị quyết kỳ họp Quốc hội khoá V ngày 27/12/1975) nhưng lập thêm ra đơn vị hành chính đặc khu (tương đương với tỉnh), đơn vị phường ở những thành phố, thị xã (tương đương với xã). Ở tất cả các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.

Những quy định của Hiến pháp năm 1980 về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được cụ thể hoá bởi Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1983. Theo đó, bổ sung vào cơ cấu của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã một cơ quan mới là thường trực Hội đồng nhân dân. Nhiệm kì Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp cũng được nâng lên từ 3 năm lên 5 năm.

Về tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân về cơ bản giống Hiến pháp năm 1959.

Chương X - Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, bao gồm 15 Điều (từ Điều 127 đến Điều 141).

Chương này về cơ bản kế thừa nội dung trong Hiến pháp năm 1959 với các quy định về nhiệm vụ chung của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, về hệ thống các cơ quan Tòa án, chức năng của các cơ quan Tòa án, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án.

Chương XI - Quốc kì, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô.

Chương XII quy định về hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp. Điều 146 của Hiến pháp quy định Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Về thủ tục sửa đổi Hiến pháp hoàn toàn kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1959.

Tóm lại, Hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Tuy có nhiều nhược điểm nhưng Hiến pháp năm 1980 là một cái mốc quan trọng trong lịch sử lập hiến của nước ta.