Gợi ý trả lời cuộc thi viết “Tìm hiểu Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam” (8)

ANTĐ -Thực hiện đúng nội dung nhất quán của Hiến pháp 2013,  những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đang hiện thực hóa mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng XI đề ra: Cộng đồng các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ.

Câu 4.

Những quy định nào của Hiến pháp năm 2013 thể hiện tư tưởng đại đoàn kết dân tộc?

Trả lời:

Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã và đang từng bước được hiện thực hóa trong quá trình cách mạng. Chính vì thế, cùng với quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, các dân tộc ở Việt Nam cũng được giải phóng, quyền bình đẳng giữa các dân tộc được khẳng định; đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế... của các dân tộc thiểu số được từng bước nâng cao, an ninh chính trị và toàn vẹn lãnh thổ được bảo đảm vững chắc. Đó là những thành tựu không thể phủ nhận của cách mạng Việt Nam trong hơn 68 năm qua.

Tinh thần đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được nhấn mạnh và làm rõ hơn trong Hiến pháp năm 2013

Trong Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây và của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày nay, đều khẳng định các dân tộc thiểu số có quyền bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.

Tinh thần đó tiếp tục được nhấn mạnh và làm rõ hơn trong Hiến pháp năm 2013. Bên cạnh Điều 5 được xác định là định hướng cho công tác dân tộc, chính sách dân tộc, lĩnh vực dân tộc, công tác dân tộc còn được quy định cụ thể trong các Điều 42, 58, 60, 61, 75 của Hiến pháp 2013.

Điều 5, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, quy định: “1. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. 2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. 3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. 4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”.

Đây là cơ sở pháp lý vững chắc để đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về VĐDT được khẳng định trong thực tiễn; quyền và nghĩa vụ công dân cũng như đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số được đảm bảo, không ngừng được nâng lên.

Thực tế cho thấy, ở Việt Nam không có dân tộc nào là “dân tộc bản địa”; không hề có vấn đề phân biệt đối xử đối với các dân tộc thiểu số, mà đều chung sống bình đẳng. Và cũng không có cơ sở thực tiễn, chính trị, pháp lý cho sự tồn tại của những loại hình kiểu “nhà nước” hay “vương quốc tự trị”… Nhà nước luôn tạo mọi điều kiện đảm bảo cho mỗi dân tộc cũng như cộng đồng các dân tộc Việt Nam phát triển.

Điều 28, Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2005, quy định: Các cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ theo tập quán hoặc theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ. Điều 8, của Bộ luật trên quy định: “Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự phải đảm bảo giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Đồng bào các dân tộc thiểu số được tạo điều kiện thuận lợi trong quan hệ dân sự để từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mình”.

Điều 17, Luật Di sản văn hóa Việt Nam khẳng định: Nhà nước tôn trọng, khuyến khích các dân tộc thiểu số giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mình, có nghĩa vụ và trách nhiệm đóng góp làm giàu kho tàng di sản văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Về đất đai, ở Việt Nam không có tình trạng Nhà nước hay chính quyền các cấp “tịch thu đất đai tổ tiên” của đồng bào các dân tộc thiểu số. Điều 38, Luật đất đai của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2003, quy định rõ các trường hợp Nhà nước thu hồi đất: vào mục đích quốc phòng - an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế; người sử dụng đất không đúng mục đích, sử dụng đất không có hiệu quả; hay trong trường hợp người sử dụng đất cố tình hủy hoại đất, tự nguyện trả lại đất, cố ý không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước; Điều 42, của Luật trên cũng quy định việc bồi thường, tái định cư cho người có đất bị thu hồi,…

Theo đó, để đảm bảo đất ở, nhà ở cho đồng bào dân tộc thiểu số, trong nhiều năm qua, Chính phủ Việt Nam đã ban hành các chính sách hỗ trợ giải quyết đất đai cho người dân tộc thiểu số thuộc diện hộ nghèo, cư trú vùng đặc biệt khó khăn; xây dựng hệ thống pháp luật có cơ chế bảo vệ công dân Việt Nam, quyền của các dân tộc thiểu số.

Ở Việt Nam không có công dân nào bị bắt, bị phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần dân tộc hay bày tỏ chính kiến hòa bình. Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2003 quy định: nghiêm cấm mọi hành vi truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc, xúc phạm khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam.

Về quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số được quy định tại Điều 42 Hiến pháp: “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”, đây là cơ sở pháp lý để xây dựng bộ tiêu chí xác định và xác định lại thành phần dân tộc, trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt

Về lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn được khẳng định tại khoản 1 Điều 58 của Hiến pháp: “1. Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”.

Để thể chế hóa các quy định của Hiến pháp, Chính phủ đã ban hành kế hoạch sửa đổi, bổ sung 82 luật, pháp lệnh liên quan, trong đó có sửa đổi Luật Bảo hiểm y tế, Luật Chăm sóc sức khỏe nhân dân, Luật Dân số.

Về lĩnh vực văn hóa, Hiến pháp tiếp tục khẳng định tại khoản 1 Điều 60 nguyên tắc: “1. Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.

Về lĩnh vực giáo dục, Hiến pháp quy định rõ hơn các chính sách ưu tiên: “2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý.
3. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề.”

Từ quy định này của Hiến pháp, Quốc hội phải sửa đổi Luật Giáo dục, đặc biệt là chính sách cử tuyển đối với sinh viên người dân tộc thiểu số, chế độ đãi ngộ đối với giáo viên ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn…

Về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng và Chủ tịch Hội đồng dân tộc được làm rõ hơn, đề cao vai trò, trách nhiệm, quy định tại khoản 2, khoản Điều 75 Hiến pháp: “2. Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 3. Chủ tịch Hội đồng dân tộc được mời tham dự phiên họp của Chính phủ bàn về việc thực hiện chính sách dân tộc. Khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng dân tộc.” 

Sáu điều nêu trên của Hiến pháp 2013 là cơ sở pháp lý quan trọng, đặt nền móng cho việc xây dựng Đề án Luật Dân tộc theo Chiến lược Công tác dân tộc đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Thực hiện đúng nội dung nhất quán của Hiến pháp 2013 - văn bản có hiệu lực pháp lý tối thượng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đang hiện thực hóa mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc khóa XI đề ra: Cộng đồng các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ.

(Còn nữa)