Theo Điều 2 Luật sửa đổi 10 luật về an ninh, trật tự 2025, Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam 2014 được bổ sung Điều 6a về khai thác và sử dụng thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành để giải quyết thủ tục hành chính
Theo đó, giấy tờ, thông tin thuộc thành phần hồ sơ đề nghị giải quyết thủ tục hành chính trong lĩnh vực nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh và cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam đã có trong cơ sở dữ liệu quốc gia hoặc cơ sở dữ liệu chuyên ngành mà cơ quan tiếp nhận, giải quyết thủ tục có thể khai thác, sử dụng được thì không yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân phải cung cấp giấy tờ, thông tin đó.
Quy định mới cũng cho phép cơ quan giải quyết thủ tục hành chính khai thác trực tiếp thông tin đã có trong cơ sở dữ liệu quốc gia hoặc cơ sở dữ liệu chuyên ngành, không yêu cầu tổ chức, cá nhân nộp lại giấy tờ.
Đặc biệt, Điều 16b được sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện thủ tục cấp thị thực điện tử theo đề nghị của cơ quan, tổ chức, gắn với tài khoản định danh điện tử và chữ ký số.
Bên cạnh đó, theo Luật mới, từ năm 2026 sẽ có thêm 3 trường hợp hủy giá trị hộ chiếu của công dân Việt Nam, đó là: Hủy giá trị sử dụng của hộ chiếu phổ thông còn thời hạn đối với trường hợp đã được cấp hộ chiếu phổ thông mới; Thu hồi, hủy giá trị sử dụng của hộ chiếu đã được cấp nhưng bị sai thông tin trên hộ chiếu; Hủy giá trị sử dụng hộ chiếu của người đang bị truy nã.
Liên quan đến Luật Cư trú, Luật sửa đổi 10 luật về an ninh, trật tự 2025 đã bổ sung trường hợp phải khai báo lưu trú gồm lưu trú trên phương tiện có chức năng ở qua đêm: Chủ sở hữu hoặc người được giao quản lý phương tiện (tàu, xe, phương tiện lưu động…) phải khai báo lưu trú khi có người ở lại qua đêm.
Ngoài ra, theo Luật mới, trẻ dưới 6 tuổi được đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp không thuộc quyền sở hữu của mình khi về ở với cha, mẹ, người giám hộ mà không cần sự đồng ý của chủ hộ và chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp đó. Công dân được đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp không thuộc quyền sở hữu của mình khi được chủ hộ và chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp đó đồng ý trong các trường hợp:
Vợ về ở với chồng; chồng về ở với vợ; người từ đủ 6 tuổi trở lên về ở với cha, mẹ, người giám hộ; cha, mẹ về ở với con; người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi về ở với người giám hộ;
Người cao tuổi về ở với anh ruột, chị ruột, em ruột, cháu ruột; người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng, người không có khả năng lao động, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi về ở với ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột;
Người chưa thành niên được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý hoặc không còn cha, mẹ về ở với cụ nội, cụ ngoại, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.