Truy cứu trách nhiệm hình sự đối tượng đe dọa bạn gái bắt ép đưa tiền

ANTD.VN - Do có mâu thuẫn trong quan hệ tình ái giữa Nguyễn Tuấn K. (SN 1993) và Đỗ Thúy H. (SN 1996) nên khi chị H. đang ngồi ăn cùng bạn gái thì Nguyễn Tuấn K. gọi điện thoại cho chị H. rồi đi xe máy đến quán chửi mắng buộc chị H. lên xe máy theo về nhà trọ. 

Tại đây K. tiếp tục chửi mắng chị H. và bắt phải quỳ trước cửa nhà nhưng chị H. không làm theo nên K. chạy vào trong nhà lấy ra một con dao dọa chém. Thấy vậy một người bạn của chị H. liền ra can ngăn và giằng dao cất đi thì K. lao vào dùng tay túm tóc, tát, đánh vào mặt, người chị H. Sau đó K. yêu cầu chị H. phải thuê taxi đi chỗ khác để nói chuyện. Chị H. gọi taxi rồi cùng K. lên xe, trên xe taxi K. vẫn tiếp tục chửi và đánh chị H. Khi đi đến đoạn đường vắng, K. yêu cầu xuống xe. Tại đây, K. lại tiếp tục chửi và đánh rồi yêu cầu chị H. phải đưa cho K. 2 triệu đồng. Chị H. sợ hãi nhưng không có tiền mặt nên lại gọi taxi đưa đến một hiệu vàng. Chị H. đã dùng chiếc lắc tay cầm đồ lấy 2 triệu đồng và đưa cho K. 

Vấn đề đặt ra là với hành vi của mình, Nguyễn Tuấn K. có phạm tội không?

Truy cứu trách nhiệm hình sự đối tượng đe dọa bạn gái bắt ép đưa tiền ảnh 1Ảnh minh họa

Ý kiến bạn đọc

Phạm tội cướp tài sản

Hành vi của Nguyễn Tuấn K. có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội cướp tài theo Điều 168, Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo quy định của pháp luật, cướp tài sản là người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Hành vi của K. thể hiện đã dùng vũ lực ngay tức khắc. Từ khi đèo chị H. về phòng trọ K. đã liên tiếp tát, đánh chị H., lấy dao định chém được can ngăn và khi bị giằng mất dao thì K. lại tiếp tục dùng tay túm tóc, tát đánh H. làm cho chị H. rất sợ hãi rồi K. yêu cầu chị H. phải đưa tiền cho K. Chị H. lo sợ nếu không đưa tiền sẽ bị K. tiếp tục đánh nên buộc phải đi cắm chiếc lắc tay để lấy tiền đưa cho K. Hành vi của K. dùng vũ lực làm cho chị H. “lâm vào tình trạng không thể chống cự được” nhằm chiếm đoạt tài sản và mục đích cuối cùng là đoạt được tài sản thể hiện đầy đủ các yếu tố cấu thành của tội cướp tài sản.

Hoàng Đình Thái (Lê Chân - Hải Phòng)

Phạm tội cưỡng đoạt tài sản

Trong vụ việc này Nguyễn Tuấn K. đã phạm tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170, Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo đó, tội cưỡng đoạt tài sản được thể hiện bởi hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản. Việc Nguyễn Tuấn K. dùng vũ lực với chị Đỗ Thúy H. trong vụ việc này là do có mâu thuẫn trong quan hệ tình ái trước đó. Còn việc K. yêu cầu chị H. phải đưa tiền cho mình là sự việc phát sinh về sau này. Chị H. sợ hãi làm theo yêu cầu của K. vì trước đó đã bị uy hiếp về mặt tinh thần, nên sợ nếu không đưa tiền sẽ bị K. đánh tiếp. Vì vậy, việc đưa tiền của chị H. không phải là sự đe dọa trực tiếp ngay tức khắc lúc đó mà nó xuất phát từ một hành động trước đó của K. không liên quan đến việc đòi tiền. Do đó, Nguyễn Tuấn K. đã phạm tội cưỡng đoạt tài sản.

Lê Thị Hòa (Thanh Xuân - Hà Nội)

Liên tục dùng vũ lực

Để định tội danh chính xác đối với Nguyễn Tuấn K. trong vụ án này chúng ta chỉ cần xem xét hành vi khách quan của K. Có thể thấy K. đã liên tiếp dùng vũ lực đối với chị H. (từ nhà trọ, trên taxi đến đoạn đường vắng khi xuống taxi). Hành vi dùng vũ lực của K. đối với chị H. diễn ra liên tục, không bị gián đoạn. Khi xuống xe taxi, K. vẫn tiếp tục chửi, đánh chị H. và yêu cầu chị H. phải đưa 2 triệu đồng, lúc này hành vi cướp tài sản của K. đã hoàn thành. Có thể ở nhà trọ, trên xe taxi K. chưa có ý định bắt chị H. phải đưa tiền (chưa có ý định chiếm đoạt) nhưng khi xuống xe taxi K. vừa đánh vừa yêu cầu chị H. phải đưa cho K. 2 triệu đồng. Điều này đã thỏa mãn hành vi khách quan của tội cướp tài sản. Do đó, cần phải xử lý Nguyễn Tuấn K. về tội cướp tài sản.

Nguyễn Thị Mỹ Duyên (Long Thành - Đồng Nai)

Bình luận của luật sư

Qua nghiên cứu nội dung vụ việc, căn cứ vào những hành vi của Nguyễn Tuấn K., chúng tôi có cơ sở để cho rằng Nguyễn Tuấn K. đã phạm tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170, Bộ luật Hình sự năm 2015, vì những lý do sau:

Thứ nhất, giữa Nguyễn Tuấn K. và chị Đỗ Thúy H. có quan hệ là người yêu của nhau, do ghen tuông nên K. đã có những hành vi dùng vũ lực đối với chị H. và sau khi có những hành vi dùng vũ lực với chị H. nêu trên thì K. tiếp tục có hành vi ép chị H. phải đưa cho K. số tiền 2 triệu đồng, được thể hiện bằng lời nói và hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực, chứ chưa có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực để chiếm đoạt ngay tài sản của bị hại tại thời điểm đó (vì lúc đó chị H không có số tiền K. yêu cầu và K. cũng nhận thức được điều này).

Như vậy, hành vi của Nguyễn Tuấn K. tuy có dấu hiệu khách quan của tội cướp tài sản, nhưng về mặt chủ quan của tội phạm thì không thỏa mãn dấu hiệu đặc trưng của tội cướp tài sản, đó là hành vi dùng vũ lực phải nhằm chiếm đoạt tài sản, hay nói cách khác, động cơ, mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản khi dùng vũ lực là một trong những dấu hiệu bắt buộc phải có của cấu thành tội cướp tài sản.

Rõ ràng, việc Nguyễn Tuấn K. dùng vũ lực với chị H. tại thời điểm đó không phải là nhằm chiếm đoạt tài sản mà là vì vấn đề tình cảm, vì ghen tuông. Hơn nữa, ngay sau hành vi dùng vũ lực và hành vi ép đưa tiền thì chị H. có một khoảng thời gian mang lắc vàng đi cầm cố để lấy tiền đưa cho K., do đó trong khoảng thời gian đi taxi đến hiệu vàng để cầm cố lắc vàng thì chị H không hoàn toàn bị tê liệt ý chí và bị tê liệt sự phản kháng mà vẫn có điều kiện để lựa chọn cách xử sự khác.

Do đó, K. khó có điều kiện dùng ngay tức khắc vũ lực đối với chị H. nếu như chị H. không đáp ứng yêu cầu đưa tiền cho K., trong hoàn cảnh này thì chị H. vẫn có điều kiện để lựa chọn những cách xử sự khác để không phải đưa tiền cho K. Tuy nhiên thực tế thì chị H. đã lựa chọn cách xử sự là cầm cố lắc vàng để đưa tiền cho K. vì sợ K. sẽ tiếp tục dùng vũ lực đối với mình. 

Thứ hai, Nguyễn Tuấn K. đã có hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực đối với chị H., bởi vì khái niệm về “hành vi” cần có sự nhận thức thống nhất là, hành vi không phải chỉ được thể hiện bằng lời nói, mà nó có thể được thể hiện bằng hành động hoặc không hành động; được thể hiện bằng thái độ, trạng thái tâm lý, cảm xúc và được đặt trong những hoàn cảnh cụ thể…

Như vậy, đánh giá hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực của Nguyễn Tuấn K. thì có thể thấy rằng, K. đã có hành vi thể hiện bằng lời nói bắt ép chị H. phải đưa cho K. 2 triệu đồng, không cần biết chị H. lấy ở đâu và bằng cách nào (lúc đó chị H. nói với K. là không có tiền); lời nói của Nguyễn Tuấn K. được thể hiện bằng thái độ hung tợn và điều quan trọng hơn là, hành vi bắt ép chị H. đưa tiền được thực hiện liền ngay sau khi K. đã dùng vũ lực và chửi bới chị H. trong một thời gian khá dài và tại nhiều địa điểm khác nhau.

Rõ ràng tại thời điểm đó thì sự hung tợn của K và sự sợ hãi của chị H. do những hành vi dùng vũ lực trước đó là chưa chấm dứt, phải khẳng định rằng K. nhận thức được điều này và đã lợi dụng việc dùng vũ lực trước đó, lợi dụng trạng thái vẫn còn sợ hãi của chị H. để bắt ép chị H. đưa tiền. Tất cả những biểu hiện hành vi trên của K. phải được coi là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản, vì nó đã tác động đến trạng thái tâm lý của chị H., làm cho chị H. sợ hãi việc K. sẽ tiếp tục dùng vũ lực nếu như không đưa tiền cho mình.

Thứ ba, có thể thấy rằng hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực của Nguyễn Tuấn K. là không mang tính ngay tức khắc, bởi vì tại thời điểm đó chị H. không có 2 triệu đồng để đưa cho K. và K. chấp nhận cho chị H. có điều kiện và có một khoảng thời gian để kiếm đủ số tiền 2 triệu đồng cho K., nhưng trong sự giám sát và đe dọa của K. từ khi đi taxi đến hiệu vàng để chị H. cầm cố lắc vàng lấy tiền đưa cho K.

Từ những phân tích trên, theo chúng tôi hành vi của Nguyễn Tuấn K. trong vụ việc này đã đủ yếu tố để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170, Bộ luật Hình sự năm 2015.

Luật sư Phạm Thái Sơn (Văn phòng Luật sư Sơn Phạm)