Quy định về quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tố giác tội phạm

ANTD.VN - Bạn đọc hỏi: Tôi bị một nữ đối tượng lừa đảo chiếm đoạt gần 300 triệu đồng bằng trò xuất khẩu lao động sang nước ngoài. Sau 4 tháng tiếp nhận đơn tố giác của tôi, ngày 26-3-2020, cơ quan điều tra ra thông báo là “đã quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tố giác tội phạm” với lý do đối tượng bị tố cáo lừa đảo không đến cơ quan công an làm việc. Xin hỏi luật sư, việc làm này của cơ quan điều tra có đúng không? Nguyễn Hạnh Mỹ (Hà Nội)

Quy định về quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tố giác tội phạm ảnh 1Nếu không đồng ý với Quyết định tạm đình chỉ của cơ quan điều tra thì công dân có quyền khiếu nại theo Điều 470 và Điều 475, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (Ảnh minh họa)

Luật sư trả lời:

Về trường hợp bạn nêu, bạn không nêu rõ hành vi của đối tượng lừa bạn như thế nào. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi 2017 về tội lừa đảo, tại Điều 174 thì: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm”. Và sẽ bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm nếu chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

Nếu hành vi của bạn nữ lừa bạn có đủ các dấu hiệu của tội danh quy định như trên mà bạn đã làm đơn tố giác đến cơ quan có thẩm quyền thì theo quy định tại Thông tư Liên tịch số: 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC, quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Trong đó quy định về giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. 

Cụ thể: “Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết, Thủ trưởng Cơ quan điều tra trực tiếp tổ chức, chỉ đạo, phân công Điều tra viên, Cán bộ điều tra thuộc quyền thụ lý, giải quyết hoặc ra Quyết định phân công Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra tổ chức, chỉ đạo thụ lý, giải quyết và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền” (Điều 9).

Đối với tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố sau khi tiếp nhận đã rõ về dấu hiệu của tội phạm, đủ căn cứ để khởi tố vụ án hình sự thì Cơ quan điều tra ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và thực hiện trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, không phải ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết, cấp trưởng Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quy định tại khoản 2, Điều 35, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trực tiếp chỉ đạo việc thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, phân công cán bộ điều tra thuộc quyền hoặc ra Quyết định phân công cấp phó trong việc thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền.

Quy định về quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tố giác tội phạm ảnh 2Luật sư Đặng Văn Sơn (Văn phòng Luật sư Đặng Sơn và Cộng sự ; Số 31, ngõ 192, đường Tam Trinh, Hà Nội)

Kết thúc quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan đã thụ lý, giải quyết phải ra một trong các quyết định quy định tại khoản 1, Điều 147, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Việc tạm đình chỉ, phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được thực hiện theo quy định tại Điều 148, Điều 149, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015...

Như nội dung bạn trình bày thì tại Điều 148, Bộ luật Tố tụng hình sự không có nội dung tạm đình chỉ vì lý do đối tượng bị tố cáo lừa đảo không đến cơ quan công an làm việc. Do vậy, nếu bạn không đồng ý với Quyết định tạm đình chỉ của cơ quan điều tra thì bạn có quyền khiếu nại theo Điều 470 và Điều 475, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi 2017.