NHỮNG DI TÍCH, BẢO VẬT CỦA THỦ ĐÔ NGHÌN NĂM VĂN HIẾN:

Đền Voi Phục - nơi lưu giữ nét văn hóa Thăng Long

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN - Đền Voi Phục hiện thuộc phường Cầu Giấy, Ba Đình, nằm bên công viên Thủ Lệ. Đền Voi Phục được biết đến là Tây trấn. Xưa kia nơi đây vốn là đất lắm hồ ao, lầy lội, là một trong Thập tam trại có từ thời Lý. Đương thời, thuộc tổng nội, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên. Được xây dựng vào năm 1065 trên một khu gò đất cao thuộc vùng đất của trại Thủ Lệ, đền là nơi thờ Hoàng tử Linh Lang con Vua Lý Thái Tông và bà phi thứ chín Dương Thị Quang.
Cổng tam quan ngoài đền Voi Phục

Cổng tam quan ngoài đền Voi Phục

Hoàng tử Linh Lang là người có công trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược và đã hy sinh trên phòng tuyến sông Cầu năm 1076. Sau khi mất, hoàng tử được người dân Thủ Lệ lập đền thờ và được nhà vua sắc phong là Linh Lang Đại vương thượng đẳng phúc thần cai quản Tây trấn để giữ bình yên cho phía Tây kinh thành Thăng Long xưa.

Linh Lang Đại vương sinh ngày 13 tháng Chạp năm Giáp Thìn (1064), được đặt tên là Hoằng Chân. Tương truyền, Hoàng tử Hoằng Chân sinh ra đã có diện mạo khôi ngô, tuấn tú. Suốt tuổi thơ, hoàng tử sống trong cung cùng mẹ ở khu Thị Trại (nay là phường Thủ Lệ). Lớn lên, Hoằng Chân tỏ rõ là chàng trai văn võ song toàn.

Thuở ấy, giặc Tống liên kết với quân Chiêm Thành kéo hàng vạn hùng binh bao vây chiếm đánh Đại Việt. Thế giặc khi ấy rất mạnh. Nhà vua bèn xuống chiếu vời nhân tài đánh giặc cứu nước. Khi sứ giả của nhà vua đi ngang qua Thị Trại, Hoàng tử Hoằng Chân nhờ sứ giả về tâu với vua chuẩn bị cho mình một lá cờ hồng, một cây giáo dài, một thớt voi. Sứ giả vui mừng vội về tâu lại với nhà vua. Nhà vua bèn cấp đủ những thứ Hoàng tử Hoằng Chân yêu cầu, ngoài ra còn cấp thêm hơn năm ngàn binh mã.

Nhận được đồ vật vua ban, Hoằng Chân bèn thét lớn: “Ta là thiên tướng”. Con voi nghe tiếng thét bèn phủ phục xuống để hoàng tử ngự lên. Trên lưng voi, Hoàng tử Hoằng Chân chỉ đạo hơn năm ngàn binh mã vua ban và 121 nghĩa sĩ của Thị Trại đánh thẳng vào nơi giặc đồn trú.

Giặc Tống thấy quân ta hùng dũng xông tới, nghe tiếng voi gầm ngựa hí thì hồn siêu phách tán, bỏ cả gươm giáo tháo chạy thoát thân. Trận ấy, hoàng tử và ba quân ca khúc khải hoàn. Nhà vua rất đỗi vui mừng, cho mở yến tiệc khao quân.

Sau buổi yến tiệc, nhà vua tỏ ý muốn nhường ngôi cho Hoàng tử Hoằng Chân, nhưng hoàng tử không nhận. Sau đó ít lâu, Hoàng tử Hoằng Chân lâm bệnh nặng. Nhà vua truyền ngự y đến cứu chữa cho ngài, nhưng bệnh tình không thuyên giảm. Không lâu sau, hoàng tử qua đời.

Nhà vua tiếc thương, bèn phong Hoàng tử Hoằng Chân làm Linh Lang Đại vương, cho lập đền thờ ngay tại Thị Trại, đổi tên Thị Trại thành ra Thủ Lệ, lại xuống chiếu cho người dân làng ấy được hưởng “Hộ nhi sở tại”, tức là được miễn phu phen, tạp dịch muôn đời để chuyên tâm thờ phụng Linh Lang Đại vương.

Sau này, khi nhà Trần đánh giặc Nguyên Mông và nhà Lê tiễu trừ Mạc Thị, các vị tướng xuất trận tới đền cầu đảo và đều giành thắng lợi. Vua Trần Thái Tông hàm ơn bèn sắc phong thêm 5 chữ: “Bình Mông Vương Thượng Đẳng”. Triều Lê Trung Hưng phong thêm 8 chữ: “Phối Đồng Thiên Địa - Vạn Cổ Lưu Truyền”. Trải qua các triều đại từ thời nhà Lý đến thời nhà Nguyễn sau này đều phong ngài làm “Thượng Đẳng Thần”.

Cho đến ngày nay, phía trước đền có đắp hai con voi quỳ gối, tương truyền khi Hoàng tử Linh Lang đi đánh giặc thì có con voi quỳ xuống thuần phục người đưa hoàng tử lên trên vành voi để ra đánh giặc, con voi nó biết coi trọng người tài giúp nước, biết phục xuống đưa lên bởi vậy mới có hình ảnh hai con voi quỳ phía trước cổng đền và được người dân gọi là đền Voi Phục.

Trong đền còn có hai pho tượng được làm bằng đồng và có hòn đá to có vết lõm, là nơi Hoàng tử Linh Lang nằm gối đầu lên rồi hóa thành con giao long trườn xuống hồ. Mặc dù đã trải qua khá nhiều lần trùng tu, kiến trúc ngôi đền cũng đã thay đổi khá nhiều, mặc dù vậy ngôi đền vẫn giữ được vẻ uy nghi, sự linh thiêng vốn có.

Đường lên sân đền có ba lối, chính giữa có 12 bậc đá rộng, nơi chỉ để rước kiệu trong ngày lễ, bình thường đi hai lối bên. Trước mặt lối giữa là một giếng vuông mang ý nghĩa tụ thủy tụ phúc, nơi xưa kia lấy nước cúng, nay giếng đã được sửa thành vuông.

Ý nghĩa cầu nước và cầu no đủ còn được thể hiện ở đôi rồng mây “chạm tròn” bằng đá, một sản phẩm khoảng giữa thế kỷ XIX và đôi hổ phù gắn hai bên tường cửa chính được chạm nổi, mang nét chuẩn mực.

Đền Voi Phục có dạng chữ Công. Tiền tế 5 gian, kết cấu vì chồng rường, mái lợp ngói mũi hài cổ. Trung đường 1 gian chạy dọc vào phía trong nối với hậu cung. Tại tòa này được đặt ngai lớn chạm khắc hình rồng, hoa lá tỉ mỉ, các nét chạm mang nghệ thuật thế kỷ XIX.

Hậu cung cũng 5 gian, gian chính giữa ở vị trí sâu và cao nhất là pho tượng đức Linh Lang Đại vương với nét mặt thanh tú, cao sang. Phía trước pho tượng Ngài là một hòn đá lớn được đặt trong hộp kính. Hòn đá có vết lõm, tương truyền thần đã từng gối đầu trên hòn đá này. Hai bên hòn đá là tượng 2 vị phụ tá đứng chầu.

Trong đền, ngoài các pho tượng còn có hoành phi, câu đối, nhang án, long ngai, cửa võng bát bửu cùng các đồ tế khí đều được sơn son thếp vàng lộng lẫy.

Đền Voi Phục đã được trùng tu sửa chữa nhiều lần và ngôi đền hiện nay khang trang hơn so với ngôi đền cũ bị thực dân Pháp phá hủy năm 1947. Năm 1994, nhân dân Thủ Lệ quyên góp đúc lại quả chuông cao 93cm, đường kính miệng 70cm, thân chia 4 múi, mỗi múi có hàng chữ Hán đúc nổi: “Tây trấn thượng đẳng”.

Ngày 10-8-2000, thành phố Hà Nội khởi công tu sửa lại Đền Voi Phục. Đợt tu bổ này tập trung chủ yếu vào khôi phục nhà Hữu Vu, hoàn chỉnh kiến trúc tổng thể cho khu di tích. Ngày 4-7-2009, đền Voi Phục một lần nữa được trùng tu tôn tạo để hướng tới Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Đền Voi Phục được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử văn hóa ngày 28-4-1962.

Vào ngày mùng 9 và mùng 10 tháng 2 âm lịch hàng năm đền thường tổ chức lễ hội mang tính chất mở với sự tham gia của du khách thập phương mang ý nghĩa cầu bình an, tiền tài, danh vọng, hình ảnh lễ rước kiệu còn mang ý nghĩa kiệu thánh đi vi hành ban lộc ban phúc cho nhân dân.

Ngôi đền là một đền thiêng trấn phía Tây kinh thành Thăng Long, ngoài những ý nghĩa trấn yểm, bảo vệ cho kinh thành Thăng Long xưa luôn được bình yên, đền còn là nơi giao thoa của nhiều nền văn hóa khác nhau xuyên suốt dòng chảy văn hóa lịch sử và đã trở thành vẻ đẹp của Hà Nội cần được giữ gìn và bảo tồn.

(Còn tiếp)