Vợ - hàn thử biểu của chồng

ANTĐ - Anh ơi xem hàn thử biểu chưa, để xem bao nhiêu độ, ngày mai có sương muối không, hai ta dậy muộn hơn ra đồng xem lúa nhé. Nghe vợ nói người chồng sờ tay lên trán vợ: “Này em, tối nay có ấm đầu không thế, vợ anh lý lịch nông dân trăm phần trăm gió sương, quê ở làng Sài Sơn, gần chùa Thầy, lạ gì lúa, nửa đêm đánh thức chồng dậy, còn nhắc đi nhắc lại, chủ nhật gọi chồng ra thăm lúa, để làm gì?”.

Vợ - hàn thử biểu của chồng ảnh 1Minh họa: Lê Phương

Ơ thế anh không thích nhìn lúa à? Ở thành phố kêu đau nửa đầu, suốt ngày chạm mắt với máy tính, với hóa nghiệm; giờ về quê, nhìn lúa lên đòng thơm lắm, mới lại rẽ qua nhà bà ba Trác, em mua cân cốm về đồ xôi. Anh thích ăn xôi cốm mà. Nói đến xôi cốm thì người chồng tên là Dân khuyên vợ ngủ đi mai dậy muộn ra đồng xem lúa. Về quê ngoại mà không ăn xôi cốm thì tiếc lắm.

Nhà bà ngoại nghèo đến nỗi cái cửa sổ bằng gỗ thông cũng vá víu vài chỗ, mùa thu gió lùa se sắt heo may thì choàng lên chiếc khăn vuông cho đỡ  gió. Mở ra thì đồng lúa ngay dưới thềm nhà. Mai anh gọi ngay thợ mộc đóng lại cái cửa sổ để kín gió cho mẹ.

Từ ngày Đông lấy chồng thành phố, năm nào cũng đợi heo may tháng mười đòi chồng cho về  quê để nhìn lúa. Đông cứ ra đến đồng lúa là ngửa mặt hít hà, là cười nói như một người khác hẳn. Chồng ạ, ruộng lúa nếp hoa vàng, nếp cái mà thổi xôi mới, hạt gạo ngọt lắm chồng ạ. Em nấu cho anh ăn rồi, nhớ không? Cả món nếp cẩm ủ men, anh ăn rượu nếp với sữa chua, anh còn bắt con nhà mình đi mua sữa chua về ăn tiếp với rượu nếp, chén sạch cả bát ô tô còn gì? Ừ, Dân chịu vợ nhớ dai, hay kể chuyện lích rích, anh buồn ngủ cứ ngủ, vợ nằm bên cứ kể suốt đến khuya, đến khi thấy chồng ngáy mới nói vớt vát: “Rõ chán, anh này cứ đặt lưng là ngủ. Ngủ lắm thế không biết”.

Khi Dân ngủ không cần nghe ếch kêu, tiếng gà cựa mình lăn trứng trong ổ, rồi sáng sớm mẹ ra đống rơm, rút rơm đun nước vối. Ánh lửa và khói nhạt nhòa. Ôi, văn minh nhà bếp ở phố đã tiến rất xa, tiến vượt bậc, sẽ không còn tìm đâu ra ngọn lửa rơm nếp thơm ngọt, nhè nhẹ thấm vào hơi thở. Ngọn khói rơm se sắt, heo may của đồng quê Bắc bộ như lưu giấu khói, rồi giấu khói trong ngực ta không sao xóa đi. Với Đông, bếp rơm nhà quê hơn đứt bếp gas, bếp từ, bếp hồng ngoại, ánh lửa và mùi rơm thơm không sao nhòa nhạt trong lòng.

Tháng 9, cứ về đến quê  nhà, Đông lại xắn quần ra đồng gặt ít lúa nếp, giã cốm non tươi, phần cho mẹ, cho chồng con ăn. Ăn cốm, nhìn sương muối, bóng người mờ mờ thả trâu ra đồng; hơi thở trong ngực hình như cũng có sương rất trong.

Đến mùa gặt nhớ rẽ qua nhà bà ba Trác xin cái chổi lúa nếp, bện rất đẹp, đến mùa, bà hay để phần chổi rơm nếp cho Đông. Từ ngày có vợ, Dân được ăn bao nhiêu món ngon từ hạt lúa do bàn tay vợ chế biến ra, món ngon không sao dứt ra được hương vị của lúa.

 Mùa thu có xôi cốm, chả cốm, người vợ còn biết cách giữ chồng trong cả mỗi bát canh dưa cà; nên Dân ít ăn quán, anh không đàn đúm với bạn nhậu lai rai.

Bạn của Dân từng thẳng thừng: “Bác sỹ Dân hỏng rồi, hắn bị vợ bỏ bùa mê các món ăn, có ra quán là chỉ ngồi nhìn thôi. Dân vốn là chuyên gia nghiên cứu về vi trùng học, anh kỹ tính cả trong công việc đến việc ăn uống”.

Sáng  sớm nghe mẹ thì thầm với con gái, mẹ bắt con vịt om dứa niêu đất cho vợ chồng con ăn, lạ miệng một bữa. Mẹ cũng đồ chõ xôi cốm, gói lá khoai đem ra cho cu Ốc. Có mớ khoai sọ, nhớ nấu canh rau muống với cua đồng cho nó ăn. Cơm trưa ở bệnh viện không mấy khi đủ vị. Con nấu ăn ngon là biết cách giữ chồng. Đông tiếp:

- “Về nhà mẹ, lỉnh kỉnh đủ thứ, con sợ nhà con không đưa con về với mẹ lâu hơn  đâu”. Không ngờ Dân nhẹ nhàng sau bậu cửa:

- “Ai bảo em  anh không thích về quê nhìn sương muối, nhớ hồi học ở bên Anh, xứ  sở của sương mù, anh nhớ em lắm, dân khoa học ít nói, không kể ra thôi. Hơn thế, vợ chồng sống bên nhau lắm lúc nhiệt độ cũng lên xuống như chiếc hàn thử biểu kia, em đã điều chỉnh được anh. Em đã là hàn thử biểu của anh rồi, ấm lạnh đều nhờ cả em thôi”.

Lần này Đông lại giơ tay lên trán Dân, “anh có ấm đầu không, sao hôm nay lại văn vẻ thế không biết”.