Giải bài toán huy động và sử dụng hiệu quả đồng vốn cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2 con số

ANTD.VN - Lãi suất cho vay được dự báo sẽ tiếp tục duy trì mặt bằng thấp để hỗ trợ nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên các chuyên gia cũng bày tỏ lo ngại về hiệu quả dòng vốn, cũng như việc đa dạng kênh dẫn vốn, thay vì phụ thuộc quá nhiều vào tín dụng.

Ngân hàng đang chịu áp lực thanh khoản

Càng về cuối năm, làn sóng tăng lãi suất huy động ngày càng nóng lên, đặc biệt sau sự vào cuộc của cả 4 ngân hàng thương mại Nhà nước gồm: Vietcombank, VietinBank, Agribank, BIDV. Tính từ đầu tháng 12 đến nay, đã có tới khoảng 25 nhà băng tăng lãi suất huy động, trong đó nhiều ngân hàng đã điều chỉnh biểu lãi suất tăng 2 - 3 lần trong tháng.

san-xuat-kinh-doanh.jpg
Nền kinh tế Việt Nam đang phụ thuộc quá nhiều vào tín dụng ngân hàng

Theo dữ liệu mới nhất mà Ngân hàng Nhà nước vừa công bố, mặt bằng lãi suất huy động trong tháng 11 có xu hướng tăng nhẹ khoảng 0,1%/năm ở các kỳ hạn ngắn và trung hạn. Theo đó, tiền gửi kỳ hạn 1 tháng đến dưới 6 tháng dao động trung bình khoảng 3,5 - 4,3%/năm; kỳ hạn 6 - 12 tháng 4,6 - 5,6%/năm; kỳ hạn 12 - 24 tháng trong khoảng 4,9 - 6,2%/năm; kỳ hạn trên 24 tháng khoảng 6,7 - 7,4%/năm. Với động thái tăng lãi suất đồng loạt trong tháng 12 vừa qua, dự báo mặt bằng trên đã có sự nâng lên. Đây là mức lãi suất phổ biến, trên thực tế nhiều ngân hàng vẫn duy trì mức lãi suất lên đến 8-9%, tuy nhiên đưa ra yêu cầu về số tiền gửi đặc biệt lớn.

Lý giải về nguyên nhân các nhà băng đua nhau tăng lãi suất huy động thời gian qua, chuyên gia kinh tế, TS Cấn Văn Lực cho rằng có 3 áp lực chính. Thứ nhất là áp lực huy động vốn. Hiện nay đang có sự lệch pha tăng trưởng khi tín dụng tăng nhanh hơn huy động vốn (khoảng 16,6% so với 13,5% tính đến cuối tháng 11). Điều này khiến thanh khoản hệ thống không còn dồi dào như giai đoạn trước, các ngân hàng buộc phải tăng lãi suất để hút tiền, đảm bảo an toàn thanh khoản và có nguồn để tiếp tục cho vay. Thứ hai là sự cạnh tranh từ các kênh đầu tư khác. Trong bối cảnh lãi suất thấp, dòng tiền trong dân đang bị thu hút bởi 5 kênh hấp dẫn, gồm: Bất động sản, chứng khoán, vàng, tài sản số và khởi nghiệp. Thứ ba là yếu tố thời vụ. Thông thường, nhu cầu vốn của doanh nghiệp và người dân thường tăng vọt vào giai đoạn cuối năm.

Về tác động đến mặt bằng lãi suất cho vay, TS Cấn Văn Lực cho rằng mặt bằng lãi suất cho vay sẽ không thể tăng tương ứng mức tăng của lãi suất huy động. Nguyên nhân là do các ngân hàng phải tuân theo chỉ đạo từ Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu giữ ổn định mặt bằng lãi suất cho vay để hỗ trợ nền kinh tế. “Hệ quả là biên lợi nhuận (NIM) của các ngân hàng đang bị thu hẹp lại. Các ngân hàng đang phải “hy sinh” một phần lợi nhuận để gánh đỡ chi phí vốn tăng cao, giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn ổn định hơn” - TS Cấn Văn Lực nói và cho rằng xu hướng thắt chặt biên lợi nhuận này dự kiến sẽ còn tiếp diễn ít nhất là hết quý I năm 2026.

ngan-hang-1.jpg
Các ngân hàng đang đối mặt áp lực thanh khoản

Hiệu quả sử dụng đồng vốn còn thấp

Dù lãi suất cho vay được duy trì ở mặt bằng thấp để hỗ trợ doanh nghiệp, song vị chuyên gia cũng cảnh báo về hiệu quả của dòng tiền. Trong giai đoạn 2026 - 2030, với kịch bản tăng trưởng 10%, ước tính tổng vốn đầu tư toàn xã hội cần huy động sẽ tương đương khoảng 39% GDP (khoảng 260 tỷ USD). Vị chuyên gia cho rằng, Việt Nam không thể mãi đi theo mô hình tăng trưởng dựa trên khối lượng vốn lớn như Trung Quốc hay Hàn Quốc thời kỳ trước mà cần hướng tới sự hiệu quả của đồng vốn.

Đối với tín dụng ngân hàng, thực tế thời gian qua, tăng trưởng tín dụng đang nhanh hơn tăng trưởng huy động vốn (lệch pha khoảng 3 điểm %). Dư nợ tín dụng hiện nay đạt trên 17 triệu tỷ đồng, trong khi tổng vốn huy động chỉ gần 15 triệu tỷ đồng. “Như vậy, hệ thống ngân hàng đang thiếu hụt khoảng 2 triệu tỷ đồng so với nhu cầu, thanh khoản không hề dồi dào như chúng ta lầm tưởng. Đó cũng là lý do lãi suất huy động buộc phải nhích lên để hút vốn, dù lãi suất cho vay vẫn đang nỗ lực giữ ổn định theo chỉ đạo của Chính phủ” - vị chuyên gia cho biết.

Dù vậy, điều đáng lo ngại là vòng quay dòng tiền tại Việt Nam đang có xu hướng chậm lại đáng kể, hiện chỉ còn khoảng 6 - 7 lần (thấp hơn nhiều so với giai đoạn năm 2011 là trên 1,1 lần). Điều này có nghĩa tiền được “bơm” ra hệ thống ngân hàng (thông qua cung tiền M2 và tín dụng) nhưng lại “chạy” rất chậm trong nền kinh tế thực. “Rõ ràng vốn đang bị đọng lại đâu đó, có thể là trong bất động sản, các dự án chậm triển khai hoặc các kênh đầu tư tài sản, thay vì đi vào sản xuất để tạo ra giá trị thặng dư nhanh chóng” - TS Cấn Văn Lực nói.

Cùng quan điểm, TS. Lê Xuân Sang - Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và thế giới cho biết, hiệu suất tín dụng/GDP của Việt Nam đã giảm đáng kể trong suốt 40 năm qua. Nguyên nhân cốt lõi nằm ở hiện tượng rò rỉ tín dụng sang các kênh phi sản xuất, khiến hiệu quả sử dụng vốn suy giảm và rủi ro hệ thống gia tăng.

Theo các chuyên gia, vòng quay tiền chậm khiến cho các công cụ điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước giảm đi tính nhạy bén. Cụ thể, khi giảm lãi suất, mục tiêu là để kích thích đầu tư, nhưng nếu vòng quay tiền chậm, doanh nghiệp vẫn không hấp thụ được vốn thì dòng tiền chỉ luân chuyển quanh co trong hệ thống tài chính mà không ra đến công trường hay nhà máy.

Như vậy, có thể thấy đang tồn tại nghịch lý dòng tiền: Huy động vốn khó (lãi suất tăng) - cho vay tăng nhanh (thanh khoản hụt) nhưng vòng quay tiền lại chậm. Điều này dẫn đến hệ quả là nền kinh tế vẫn cảm thấy “khát vốn” hiệu quả, dù con số tín dụng trên giấy tờ tăng trưởng rất mạnh. Vấn đề không còn là lượng tiền bao nhiêu, mà là hiệu quả của dòng tiền đó.

Cần đa dạng nguồn vốn cho tăng trưởng

Theo các chuyên gia, nền kinh tế Việt Nam đang phụ thuộc quá nhiều vào tín dụng ngân hàng với hơn 50% nguồn vốn cho nền kinh tế đến từ tín dụng. Ngưỡng tín dụng/GDP an toàn đối với khu vực ASEAN chỉ khoảng 96,5%, trong khi Việt Nam, tỷ lệ này ước đang là 147%. Nếu tín dụng tiếp tục tăng 16 - 17% giai đoạn tới thì đến năm 2030, tỷ lệ tín dụng/GDP sẽ đạt tới 180 - 185% GDP, thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao nhất thế giới.

Theo TS. Cấn Văn Lực, đây là một sự mất cân đối cần sớm được điều chỉnh bằng chiến lược tổng thể về huy động và phân bổ nguồn lực, gắn chặt với phát triển thị trường vốn. Giải pháp cấp bách là phải phát triển thị trường vốn, đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp và cổ phiếu để dẫn vốn trung và dài hạn. Cùng với đó là các giải pháp như khai thác các nguồn tài chính bền vững, tài chính xanh, nâng hạng thị trường chứng khoán, xây dựng trung tâm tài chính quốc tế, phát triển thị trường tài sản số…

TS. Lê Xuân Sang cũng cho rằng, trong 5 - 10 năm tới, Việt Nam cần tập trung đa dạng hóa nguồn vốn thông qua thị trường chứng khoán, phát triển các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và định hướng dòng vốn vào những lĩnh vực có lợi thế so sánh cao như năng lượng tái tạo, thương mại điện tử và hệ sinh thái ươm tạo công nghệ. Những lĩnh vực này có khả năng nâng cao năng suất mà ít tạo áp lực lạm phát, qua đó giảm phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng.

Tin cùng chuyên mục