PGS.TS Đoàn Cầm Thi

Dịch thuật mở cánh cửa đưa Việt Nam ra thế giới

ANTĐ -  “Văn chương không phải tài sản của một cá nhân mà là tài sản của quốc gia. Ở Nhật Bản, việc quảng bá văn học không chỉ là công việc của Chính phủ mà các tổ chức xã hội sẵn sàng đầu tư cho các nhà xuất bản khi có một tác phẩm chuẩn bị được chuyển ngữ” - PGS.TS Đoàn Cầm Thi, một trong những “đại sứ” của văn học Việt Nam tại Pháp nhận định.

Dịch thuật mở cánh cửa đưa Việt Nam ra thế giới ảnh 1Sự hiện diện của văn học Việt Nam tại Pháp thông qua những tác phẩm dịch PGS. TS Đoàn Cầm Thi

1. Có một con số thống kê cho thấy, trong giai đoạn từ 1980 – 2009, số lượng sách văn học viết bằng tiếng Việt và dịch ra các ngôn ngữ khác là tiếng Pháp - 130 cuốn, tiếng Anh - 83 cuốn, tiếng Nga - 42 cuốn và tiếng Đức – 27 cuốn. Điều này chứng tỏ Pháp là mảnh đất “màu mỡ” của văn học dịch Việt Nam. PGS.TS Đoàn Cầm Thi – người khởi xướng “Tủ sách Việt Nam đương đại” của NXB Riveneuve tại Pháp từ lâu đã trăn trở.

Trong 2 năm hoạt động tủ sách, chị và những người cộng sự đã miệt mài dịch và chuyển ngữ 12 tác phẩm văn học Việt Nam ra tiếng Pháp. Trong đó đều là những tác phẩm văn học đương đại như “Cơ hội của Chúa” (Nguyễn Việt Hà), “Bến không chồng” (Dương Hướng), “Thoạt kỳ thủy” (Nguyễn Bình Phương), “Giữa dòng chảy lạc” (Nguyễn Danh Lam)… Các tác phẩm này đều được in với số lượng 2.000 bản/cuốn và ngay khi xuất hiện đã nhận được những đánh giá khả quan từ cộng đồng Pháp ngữ. Đây cũng được coi là một thành tựu khi những cái tên mà  tủ sách lựa chọn đều là những tác phẩm khá “kén khách” ở thị trường trong nước, nên khi xuất khẩu ra nước ngoài cũng là một thách thức. 

2. “Nếu như cách đây 10-15 năm, các tác giả Việt Nam thường hay viết truyện ngắn thì những năm trở lại đây, tiểu thuyết lên ngôi” - PGS. TS Đoàn Cầm Thi đánh giá. Michel Butor, một trong những tác gia quan trọng nhất của dòng tiểu thuyết mới của Pháp cũng nhận định: “Không có hình thức văn học nào hiện nay có được sức mạnh to lớn như tiểu thuyết”.

Tiểu thuyết cho phép người viết thỏa mãn cái thèm khát sáng tạo, thỏa thích phô bày những hiện thực cuộc sống, điều mà các thể loại khác ít hoặc rất khó làm được. Bởi vậy, nhóm thực hiện tủ sách đặc biệt quan tâm đến thể loại này, trong đó giới thiệu tiểu thuyết Việt Nam như một dòng chảy nổi bật của văn chương, với những gương mặt nhà văn thuộc thế hệ mới với lối viết khá gai góc, có nhiều đột phá trong bút pháp và truyền tải nội dung. Điển hình trong đó có thể kể đến là Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Đỗ Khiêm, Thuận, Phong Điệp…  

3. Dịch văn học hay còn có thể gọi là truyền tải ngôn ngữ văn học là một lao động cực kỳ vất vả. Để dịch cuốn “Blogger” của nhà văn Phong Điệp, dịch giả Nguyễn Phương Ngọc, một thành viên của “Tủ sách Việt Nam đương đại” đã mất 2 năm, hàng  nghìn giờ làm việc, chỉ có xấp xỉ 200 trang sách.

Cũng là người trực tiếp chuyển ngữ các tác phẩm “Cơ hội của Chúa”, “Bến không chồng”, và mới nhất là cuốn “Ngựa Thép” của Phan Hồn Nhiên, PGS.TS Đoàn Cầm Thi cho biết:  “nhiều khi ngồi trước một tác phẩm, cả ngày chúng tôi chỉ dịch được nửa trang”. Nói lưu loát một ngôn ngữ chưa chắc đã có thể dịch tốt. Để dịch văn chương, dịch giả phải có một phông chữ văn chương dày dạn, nếu không những cái dịch ra “chỉ có xác mà không có hồn”.

Chị tâm sự:  “Khi dịch, chúng tôi thường xuyên đứng ở 2 vị trí, một là của tác giả, hai là của độc giả, nhất là với độc giả Pháp, để xem họ có hiểu ý tứ của tác giả hay không”. Bởi vậy, việc dịch giống như công việc của người  thợ kim hoàn, luôn luôn phải tìm tòi, mài giũa, trau chuốt. 

4. Nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của dịch thuật, tuy nhiên, PGS.TS Đoàn Cầm Thi cho rằng, việc quảng bá văn học Việt Nam thông qua những tác phẩm dịch thuật còn khá lẻ tẻ. Ngay cả công việc hiện tại của chị và nhóm dịch giả cũng hoàn toàn “đơn thương độc mã”. Chị cho biết: “Văn học Việt Nam là khái niệm hoàn toàn mới ở phương Tây. Chúng tôi phải trực tiếp cầm bản thảo đến các nhà xuất bản, làm sao để thuyết phục họ đây là một tác phẩm hay. Khi in xong rồi, chúng tôi gõ cửa tất cả các nơi, tìm cách chinh phục mọi đối tượng độc giả”.

Trong khi đó, ở Nhật Bản, việc quảng bá văn học được tiến hành rất bài bản. Đây không chỉ là công việc của riêng Chính phủ mà khi có một tác phẩm chuẩn bị được dịch ngữ, các tổ chức xã hội sẵn sàng đầu tư từ khâu in ấn cho đến quảng bá tác phẩm. Đó là nguyên nhân lý giải văn học Nhật Bản đang chiếm lĩnh các kệ sách của phương Tây  và cả châu Á. Từ bài học của nước Nhật, đã đến lúc chúng ta cần có chiến lược “xuất khẩu văn học” một cách hệ thống và bài bản để văn học thực sự trở thành những cánh cửa đưa Việt Nam đến với thế giới.