"Tường đè" một thời

ANTD.VN - Thời vua Tự Đức, Hà Nội nhỏ hẹp, các phố “hàng” đông đúc và cũng chẳng có nhà vệ sinh công cộng. 

Nhà vệ sinh công cộng bị quây bởi đủ các hàng quán ăn uống

Người dân các tỉnh về chơi, sắm sanh hàng hóa, thấy bí tiểu thì đi nhờ hoặc tự nhiên ra ao hồ. Chuyện này đã được Hocquard, một  bác sỹ của quân  đội  viễn chinh Pháp đến Hà Nội năm 1883 mô tả  trong cuốn “Một chiến dịch ở Bắc Kỳ  (Une campagne au Tonkin, xuất  bản tại Paris 1896): “Những túp lều dày đặc bao quanh hồ Gươm, lối đi xuống hồ là những ngõ nhỏ nồng nặc mùi xú uế và nước  tiểu. Thành  phố này không có bất cứ nhà vệ sinh công cộng nào”. 

Từ nghị định đầu tiên đến “anh bắt đái”      

Khi Pháp chiếm trọn Hà Nội năm 1883, Công sứ Bonnal đã đưa ra chủ trương cải tạo lại khu vực “36 phố phường” và xây một khu phố mới ở phía Nam hồ Gươm. Nhưng trước tiên ông ta cho quy hoạch lại hồ Gươm và quyết liệt thực hiện kế hoạch  này. Năm 1888, Hà Nội trở thành thành phố nhượng địa, các quy định của triều Nguyễn không còn giá trị nên Đốc lý thành phố, Thống sứ Bắc Kỳ, Toàn quyền Đông Dương đã ra nhiều nghị định để đưa Hà Nội vào nền nếp theo kiểu Pháp.  

Năm 1889, chính quyền dựng hàng rào làm chợ Đồng Xuân dồn những người  buôn bán về  đây. Chợ đông đúc dần và trở thành chợ lớn nhất phía Bắc, hàng hóa không thiếu thứ gì và nó được ví là cái “dạ dày” của Hà Nội. Đi chợ  không chỉ có người Việt mà còn có vợ con binh lính, công chức, viên chức  Pháp.

Dù chợ đã được dựng khung sắt, bao hàng rào xung quanh song vẫn chưa có nhà  vệ sinh, đám Tây đầm đi chợ kêu la nên năm 1891, chính quyền cho xây nhà vệ sinh, tuy nhiên chỉ dành cho đầm, vì thế dân gọi là “nhà vệ sinh đầm” (đây là nhà vệ sinh công cộng đầu tiên ở Hà Nội). Người Việt không có chỗ đi tiểu, họ ra phía sau chợ (nay là khu vực chợ Cao Thắng) ngồi sau mấy cây duối to.

Nước tiểu lưu niêm làm chết cả mấy cây duối. Khi gió Đông Nam thổi, mùi khai nồng nặc lùa vào chợ khiến cả người bán lẫn người đi chợ không chịu nổi nên chính quyền thuộc địa xây nhà vệ sinh cho người An Nam.

Trên các phố, lúc này đang nắn đường, làm nhà thẳng hàng, bắt buộc nhà nào cũng phải có nhà vệ sinh, cống thoát nước thải chảy ra hệ thống cống chung của thành phố cũng đang xây dựng. Để Hà Nội là thành phố văn minh, ngày 29-3-1892, Đốc lý Hà Nội ra nghị định về vệ sinh công cộng và trật tự lục lộ, theo điều 2 của Nghị định, các nhà mặt phố phải vệ sinh trước cửa nhà, khơi thông cống rãnh cho nước chảy, không được tiểu bậy.

Xe ngựa đi trên phố phải có miếng vải đỡ phân phía sau, không được chăn thả gia súc, nếu vi phạm sẽ bị xử phạt “theo Luật Hình sự của nước Pháp”. Cùng với Nghị định, thành phố thành lập Cảnh sát lục lộ hàng ngày đi tuần xử phạt người vi phạm. Tuy nhiên vì thành phố chưa có nhà vệ sinh công cộng nên lúc bí người đi đường vẫn lẻn vào ngõ vắng, các khu đất trống hai bên đường đi tiểu bậy.  

Năm 1902, Hà Nội trở thành Thủ đô của Liên bang Đông Dương thì chính quyền thành phố cho xây nhà vệ sinh công cộng, tập trung ở nơi đông người qua lại như quanh hồ Gươm, Cửa Nam, ga Hàng Cỏ, phố Phùng Hưng, chợ Hàng Da... Thậm chí phố Trần Hưng Đạo cuối  thập niên 20 thế kỷ XX còn thưa nhà nhưng họ vẫn cho xây nhà vệ sinh.

Hàng ngày, những nhà vệ sinh này có nhân viên của các công ty đổ thùng trúng thầu quét dọn và dội nước. Trên phố có biển chỉ dẫn đến nhà vệ sinh cho khách bằng chữ Việt và chữ Pháp. Thập niên đầu thế kỷ XX, dân số Hà Nội lên trên 10 vạn, khách các tỉnh về Hà Nội cũng nhiều hơn nên ở nhiều con phố vẫn xảy ra tình trạng tiểu bậy. 

Tố Tịch đầu thập niên 20 là con phố nhỏ, phần tiếp giáp với Hàng Gai còn thưa thớt người vì thế là nơi để dân chúng tè  trộm. Mùi xú uế khiến các nhà quanh khu vực không chịu nổi, họ góp tiền  thuê một người chuyên rình bắt kẻ tiểu bậy gọi là “anh bắt  đái”. Bắt được ai tè bậy, anh này giao cho cảnh sát, nhưng rồi bắt không xuể. Trước thực trạng đó, ông Kỳ Dương ở Tố Tịch đã  nghĩ ra kế, ông xây bệ thờ nhỏ giả làm miếu thắp hương suốt ngày, người vào đó định tiểu thấy hương khói nghi ngút không dám đi nữa, từ đó ngã ba này không còn nạn đái bậy.

 Chính quyền thành phố lập đội “cảnh sát phong tục”, đội này có  nhiệm vụ phạt các cô gái điếm hành nghề không giấy phép, người đi tiểu bậy, gây gổ nơi công cộng. Trong tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng, có hai nhân vật là Min Đơ, Min Toa, hai ông cảnh sát Pháp này hàng ngày mặc quần soóc đi các phố phạt những người đái bậy là thật, không phải hư cấu. Chính quyền không tin cảnh sát người Việt vì đã có người nhận hối lộ rồi bỏ qua sai phạm nên “cảnh sát phong tục” hầu hết là người Pháp. 

Chuyện “tế nhị” thời bao cấp thế nào?

 Sau năm 1954, chính quyền mới có quá nhiều việc cấp thiết phải làm nên không xây thêm nhà vệ  sinh công cộng nào dù bà con ở  nông thôn đổ ra thành thị sinh sống rất đông. Trong bài “Một ngày chủ nhật” đăng Báo Thời Mới năm 1956, nhà văn của “Lũy hoa”, “Sống mãi với Thủ đô” Nguyễn Huy Tưởng đã phàn nàn về một Hà Nội “nhếch nhác”. Phóng uế, tiểu tiện diễn ra sau gốc cây, bờ tường cơ quan công sở đẫm nước trong ngày hè nắng gắt, cột điện sắt han rỉ.

Người  đi qua sợ không ăn được cơm phải nhắm lại, sợ mùi khẳn xộc vào phải bịt mũi. Dân khi ấy vẫn đùa “chỗ nào có biển cấm nghĩa là chỗ đó được phép”. Thời bao cấp có giai thoại về phạt đái bậy, chuyện là ông uống bia hơi xong có nhu cầu bèn bảo cháu đợi rồi xông vào chỗ có biển “Cấm đái bậy”.

Vừa làm xong cái việc khoan khoái ấy quay ra thì gặp anh làm nhiệm vụ xé vé phạt, ông  vui vẻ đưa 5 hào nhưng anh thi hành công vụ không có tiền lẻ trả lại, ông bèn bảo “thôi khỏi trả lại để cháu tôi tè nốt là đủ 5 hào tiền phạt”. Giai thoại cho thấy có quy định nhưng xử phạt không nghiêm nên thành phố thiếu văn minh. 

Cũng thời bao cấp, hầm tránh bom ở vườn hoa Chí Linh (nay là vườn hoa Lý Thái Tổ) lúc nào cũng sặc sụa mùi xú uế. Cho đến hôm nay nhiều người lớn tuổi sống ở phố Hàng Khay vẫn không thể quên nguyên nhân cây đa ở góc ngã tư Hàng Khay-Đinh Tiên Hoàng (nay là vị trí đặt đồng hồ hoa) bị chết chỉ vì...  úng ngập nước tiểu. 

“ Ỉa đúng lỗ, đái đúng dòng/ Làm xong đốt giấy bỏ tro mới về”, cái câu thường thấy ở các nhà vệ sinh công cộng thời bao cấp cho thấy ý thức của người dân là kém, song cũng phải nói thêm, cái miếng xi măng toen hoẻn thì làm sao mà đi cho đúng được? Nguyên nhân khác còn do các nhà vệ sinh quá bẩn và dù dân số nội thành ngày đó tăng lên 1 triệu người song số nhà vệ sinh vẫn chỉ có từng ấy, hỏi làm sao không tè bậy?

Nhà văn, nhà báo Nguyễn Ngọc Tiến