Tốc độ 3G, 4G của nhà mạng nào đang dẫn đầu?

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN -  Cục Viễn thông (Bộ TT-TT) vừa công bố chất lượng đo kiểm dịch vụ điện thoại và dịch vụ vụ truy cập Internet trên mạng viễn thông di động mặt đất trong quý 4/2020 và quý 1/2021 của 4 doanh nghiệp tham gia đo kiểm là: MobiFone, VNPT, Viettel và Vietnamobile .
4G vẫn là công nghệ chủ đạo của Viettel trong vòng 3 năm tới

4G vẫn là công nghệ chủ đạo của Viettel trong vòng 3 năm tới

Theo đó, đối với dịch vụ truy nhập Internet trên mạng viễn thông di động mặt đất sử dụng 3G, việc đo điểm được thực hiện trên địa bàn 2 tỉnh Tây Ninh và Bình Phước.

Kết quả cho thấy, tốc độ tải xuống trung bình của 4 nhà mạng là MobiFone (15,57 Mbps), VNPT 12,25 Mbps), Viettel (20,51 Mbps), Vietnamobile (5,83 Mbps). Tốc độ tải lên trung bình lần lượt là MobiFone (2,61 Mbps), VNPT (2,41 Mbps), Viettel (3,69 Mbps), Vietnamobile (2,46 Mbps).

Về độ sẵn sàng của mạng vô tuyến, tỷ lệ này đo được tại MobiFone là 99,3%, VNPT 99,58%, Viettel 99,8% và Vietnamobile 95,28%. Tất cả các nhà mạng đều cao hơn tiêu chuẩn (95%).

Đối với tỷ lệ truyền tải bị rơi và tỷ lệ truy nhập không thành công dịch vụ, kết quả đo kiểm của cả 4 nhà mạng đều ở mức 0%, tốt hơn so với tiêu chuẩn (5%).

Về thời gian trễ trung bình truy nhập dịch vụ, kết quả ghi nhận tại nhà mạng MobiFone là 4,26 giây, VNPT 3,79 giây, Viettel 3,84 giây, Vietnamobile 4,33 giây, trong khi tiêu chuẩn là 10 giây.

Theo đại diện Cục Viễn thông, chỉ tiêu “Độ sẵn sàng của mạng vô tuyến” của Vietnamobile tính trung bình trên cả hai địa bàn Tây Ninh và Bình Phước đạt yêu cầu của quy chuẩn. Tuy nhiên, riêng địa bàn tỉnh Bình Phước là 93,87% thấp hơn theo yêu cầu của quy chuẩn QCVN 81:2019/BTTTT (95%).

Đối với dịch vụ 4G, việc đo kiểm được thực hiện tại 2 tỉnh Thái Nguyên và Bắc Ninh.

Kết quả đo kiểm tại Thái Nguyên cho thấy, tốc độ tải xuống trung bình của 3 nhà mạng là MobiFone (34,79 Mbps), VNPT (26,19 Mbps), Viettel (62,92 Mbps). Tốc độ tải lên trung bình lần lượt là MobiFone (25,18 Mbps), VNPT (29,4 Mbps), Viettel (24,31 Mbps).

Về độ sẵn sàng của mạng vô tuyến, tỷ lệ này đo được tại MobiFone là 97,35%, VNPT 98,45%, Viettel 98,88%, cao hơn tiêu chuẩn (95%).

Đối với tỷ lệ truyền tải bị rơi và tỷ lệ truy nhập không thành công dịch vụ, kết quả đo kiểm của cả 3 nhà mạng đều ở mức 0%, tốt hơn so với tiêu chuẩn (5%).

Về thời gian trễ trung bình truy nhập dịch vụ, kết quả ghi nhận tại nhà mạng MobiFone là 1,57 giây, VNPT 1,76 giây, Viettel 1,62 giây, đều thấp hơn mức 10 giây tiêu chuẩn.

Kết quả đo kiểm tại Bắc Ninh cho thấy tốc độ tải xuống và tải lên trung bình của có thay đổi so với kết quả đo kiểm tại Thái Nguyên, tuy nhiên các chỉ tiêu khác đều cao hơn tiêu chuẩn kỹ thuật.

Theo đại diện Cục Viễn thông, hiện nhiều nhà mạng ngại đầu tư nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng do khách hàng đã khá hài lòng với chất lượng dịch vụ của nhà mạng, đầu tư sẽ tốn kém. Tuy nhiên, hiện tốc độ Internet di động tại Việt Nam vẫn thấp hơn mức trung bình của thế giới. Do đó, các nhà mạng vẫn cần nâng cao chất lượng mạng lưới.

Nêu ý kiến về vấn đề này, đại diện Viettel cho biết, quý 1/2021, Viettel tiếp tục ghi nhận sự tăng trưởng về nhu cầu sử dụng data trên toàn quốc. Đặc biệt, lưu lượng data 4G tăng gần 10% so với quý 4/2020 và cao hơn quý 01/2020 tới 40%.