Lật lại cuộc hải chiến "kinh thiên động địa" giữa Mỹ và Iran năm 1988

ANTD.VN - Trong bối cảnh Mỹ gia tăng trừng phạt Iran, liên tục tạo sức ép lên "quốc gia Trung Đông" và triển khai nhiều lực lượng quân đội đến Vịnh Ba Tư làm giới chuyên gia lo ngại sẽ lặp lại cuộc hải chiến năm 1988. Tại trận chiến đó, Hải quân Mỹ đã giành chiến thắng, còn Iran thất bại nặng nề khi bị xóa sổ nửa hạm đội ngay trên "sân nhà".

Cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, mối quan hệ giữa Mỹ và Iran trở nên căng thẳng, thậm chí nguy cơ bùng phát chiến tranh khi xảy ra trận Hải chiến năm 1988 trên Vịnh Ba Tư. Khởi nguồn của trận chiến là do tàu hộ vệ Mỹ dính thủy lôi của Iran. Để dằn mặt đối thủ, Hải quân Mỹ đã triển khai "chiến dịch trả đũa" nhằm vào các giàn khoan và tàu chiến Iran, khiến một nửa hạm đội của Iran bị xóa sổ chỉ trong một ngày. 

Nguồn gốc của cuộc chiến

Chính phủ Iraq năm 1980 đã phát động chiến dịch quân sự tấn công Iran với nhiều lý do khác nhau, song chủ yếu nhằm tận dụng tình trạng bất ổn sau khi đế chế Shah sụp đổ và ngăn cuộc Cách mạng Hồi giáo Iran lan sang các quốc gia láng giềng. Hành động này châm ngòi cho Chiến tranh Iran - Iraq kéo dài suốt 8 năm.

Máy bay Mỹ tấn công giàn khoan Iran

Cuộc chiến Iran-Iraq (1980-1988) đã buộc hai bên phải tấn công quân sự lẫn nhau nhằm gây thiệt hại kinh tế và làm suy yếu vị thế của đối thủ. Bắt đầu từ năm 1984, một cuộc chiến tàu chở dầu đã bắt đầu tại khu vực Vịnh Ba Tư, bằng cách gây gián đoạn việc vận chuyển dầu của bên thứ ba. Đó là lý do tại sao cuộc xung đột Iran-Iraq được quốc tế hóa, dẫn đến sự tham gia của quân đội từ các quốc gia khác vào khu vực này.

Lúc đó, Mỹ, Liên Xô và các nước Arab không trực tiếp tham chiến nhưng bày tỏ sự ủng hộ với Iraq, trong khi Iran bị "cô lập" trên trường quốc tế. Để ngăn chặn việc Iran tấn công các tàu chở dầu đi qua vịnh Ba Tư, Hải quân Mỹ triển khai nhiều chiến hạm thực hiện nhiệm vụ hộ tống. Ngày 14-4-1984, trong một đợt hộ tống tàu chở dầu mang cờ Kuwait, tàu hộ vệ tên lửa USS Samuel B. Roberts của Mỹ bị trúng thủy lôi trên Vịnh Ba Tư. Vụ nổ tạo ra lỗ thủng có đường kính chừng 7 mét trên thân chiến hạm Mỹ và suýt khiến nó bị chìm. Con tàu được đưa về cảng Dubai, Các tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE) sau đó hai ngày.

Sau đó, Hải quân Mỹ cũng phát hiện nhiều quả thủy lôi khác trên vịnh Ba Tư. Khi tiến hành khảo sát, Mỹ xác định các mảnh vỡ của chúng có số series trùng khớp với nhiều quả thủy lôi được tìm thấy trên tàu đổ bộ Iran Ajr hồi tháng 9-1987, cho thấy USS Samuel B. Roberts đã trúng thủy lôi của Iran. Lầu Năm Góc lập tức lên kế hoạch tấn công trả đũa mang tên Praying Mantis (Bọ ngựa) nhằm dằn mặt Iran.

Ngày 18-4-1988, Hải quân Mỹ mở cuộc tấn công với lực lượng gồm tàu sân bay USS Enterprise; 2 tàu tuần dương (USS Wainwright CG-28 lớp Belknap và USS Simpson FFG-56 lớp Oliver Hazard Perry; 4 tàu khu trục, 3 tàu hộ vệ tên lửa và 1 tàu vận tải đổ bộ. Mục tiêu của nhóm tàu chiến Mỹ là giàn khoan dầu Sassan, Rakhsh và Sirri trên vùng biển Iran, được dùng để theo dõi tuyến đường biển qua eo biển Hormuz. Ở phía bên kia, Iran cũng triển khai nhiều tàu tên lửa tấn công nhanh lớp Kaman (nguyên gốc là tàu tên lửa tấn công nhanh Type 148 của Hải quân Đức, sau đó nó được Pháp sản xuất dưới tên gọi La Combattante IIa).

Tấn công như "vũ bão"

Theo kế hoạch, nhóm tác chiến đầu tiên của Hải quân Mỹ được lệnh tiếp cận giàn khoan Sassan của Iran. Khoảng 8 giờ sáng ngày 18-4, phía Mỹ phát cảnh báo qua sóng vô tuyến và yêu cầu những người có mặt trên giàn khoan rời đi. Tàu chiến Mỹ khai hỏa sau 20 phút, các khẩu đội pháo nòng đôi ZU-23 cỡ nòng 23 mm trên giàn khoan lập tức bắn trả. Pháo hạm Mỹ có ưu thế về tầm bắn và sát thương, nhanh chóng vô hiệu hóa một số khẩu ZU-23 Iran. Lực lượng trên giàn khoan phát tín hiệu đề nghị ngừng bắn và các tàu chiến chấp thuận.

Sau khi một tàu kéo đưa nhân viên giàn khoan rời khỏi khu vực, lực lượng Mỹ tiếp tục nã pháo và phá hủy những khẩu đội ZU-23 còn lại. Lính thủy đánh bộ từ tàu vận tải đổ bộ USS Trenton tiếp cận giàn khoan dưới sự yểm trợ của trực thăng AH-1 Cobra và tìm thấy một người sống sót. Họ thu thập tài liệu tình báo và cài chất nổ để phá hủy Sassan. Nhóm tàu chiến Mỹ sau đó chuyển hướng đến giàn khoan Rakhsh.

Tàu chiến Mỹ bắt đầu khai hỏa

Không quân Iran điều 2 tiêm kích F-4 Phantom II tấn công nhóm tàu chiến Mỹ, nhưng biên đội này đổi hướng sau khi tàu khu trục USS Lynde McCormick bật radar hỏa lực và khóa mục tiêu vào chúng. Sau khi di chuyển được nửa đường, các tàu chiến Mỹ nhận lệnh hủy cuộc tấn công để giảm căng thẳng với Tehran.

Nhóm tác chiến thứ hai gồm tàu tuần dương USS Wainwright, tàu hộ vệ USS Simpson và USS Bagley tấn công giàn khoan Sirri. Đặc nhiệm Hải quân Mỹ (SEAL) dự kiến đổ bộ, kiểm soát và phá hủy công trình này, nhưng giàn khoan đã hư hại nặng sau đợt pháo kích của tàu chiến Mỹ và đợt đổ bộ bị hủy. Iran đối phó bằng cách triển khai ít nhất 6 xuồng cao tốc Boghammar tấn công các mục tiêu trên Vịnh Ba Tư như tàu hậu cần Willie Tide của Mỹ, tàu dầu York Marine của Anh và giàn khoan dầu Scan Bay mang cờ Panama, khiến các tàu đều hư hỏng. Mỹ cho 2 cường kích A-6E cất cánh từ tàu sân bay USS Enterprise và được 1 tàu hộ vệ dẫn đường tới vị trí nhóm xuồng Iran. Máy bay Mỹ thả bom chùm, đánh chìm 1 xuồng và làm hư hại những chiếc còn lại.

Căng thẳng tiếp tục gia tăng khi 2 tàu tên lửa của phía Iran khiêu chiến với USS Wainwright và nhóm chiến hạm Mỹ. Thuyền trưởng tàu Wainwright phát đi hàng loạt cảnh cáo, trong đó có thông báo "tắt máy, rời bỏ tàu, tôi sẽ đánh chìm tàu của các vị". Tàu tên lửa Joshan (Iran) đáp trả bằng cách phóng 1 tên lửa diệt hạm Harpoon, nhưng quả đạn bị mồi bẫy trên tàu chiến Mỹ đánh lừa và đâm xuống biển. T

àu hộ vệ USS Simpson phóng 4 tên lửa phòng không RIM-66 Standard, USS Wainwright cũng bắn một quả RIM-66. Toàn bộ 5 quả đạn đều đánh trúng đích, phá hủy phần thượng tầng của tàu Joshan nhưng không đánh chìm được nó. USS Bagley phóng 1 quả tên lửa diệt hạm Harpoon nhưng trượt mục tiêu. 3 tàu chiến Mỹ sau đó áp sát chiến hạm Iran và đánh chìm nó bằng hải pháo.

Một biên đội tiêm kích F-4 Iran duy trì khoảng cách gần 50 km với USS Wainwright, trước khi tàu chiến Mỹ phóng 2 quả đạn RIM-174 Standard ERAM. Một quả kích nổ gần mục tiêu, thổi bay một phần cánh và găm nhiều mảnh văng vào thân chiếc F-4. Biên đội tiêm kích Iran rút lui và hạ cánh an toàn ở sân bay Bandar Abbas. Chiến sự tiếp diễn khi tàu hộ vệ Sahand của Iran rời cảng Bandar Abbas để khiêu chiến với lực lượng Mỹ.

Hai cường kích A-6E phát hiện nó khi đang tuần tra trên không. Tàu Sahand phóng tên lửa phòng không nhằm vào biên đội A-6E nhưng trượt mục tiêu, máy bay Mỹ đáp trả bằng 2 tên lửa diệt hạm Harpoon và 4 tên lửa dẫn đường laser Skipper. Tàu khu trục USS Joseph Strauss cũng phóng 1 quả Harpoon. Phần lớn tên lửa đều trúng đích, khiến Sahand hỏng nặng và bốc cháy dữ dội. Ngọn lửa từ boong tàu sau đó lan xuống kho đạn, gây ra vụ nổ làm con tàu chìm hẳn.

Mỹ triển khai tàu USS Wainwright để trinh sát và sẵn sàng giao chiến

Chiều 18-4-1988, tàu hộ vệ Sabalan rời cảng Bandar Abbas và phóng nhiều tên lửa phòng không vào phi đội A-6E Mỹ. Cường kích Mỹ thả 1 quả bom dẫn đường laser trúng ống khói tàu chiến Iran, khiến nó bốc cháy và mất khả năng chiến đấu. Dù phần đuôi bị chìm một phần, Sabalan vẫn được kéo về cảng để sửa chữa và trở lại hoạt động sau này. Những chiếc A-6E ngừng tấn công và trở về tàu sân bay USS Enterprise.

Sau đó, phía Iran tiếp tục phóng một số tên lửa chống hạm HY-4 vào nhóm tàu chiến Mỹ trên eo biển Hormuz và USS Gary ở bắc Vịnh Ba Tư. Tuy nhiên, tất cả đều trượt mục tiêu do tàu chiến Mỹ cơ động né tránh và tung mồi bẫy đánh lừa. Lầu Năm Góc sau đó bác bỏ thông tin chiến hạm Mỹ bị tấn công nhằm tránh để căng thẳng leo thang.

Sau khi đánh hỏng tàu Sabalan, lực lượng Hải quân Mỹ được lệnh rút quân, giúp Iran có đường xuống thang và tránh gây ra thêm xung đột. Tehran chấp nhận đề xuất ngừng bắn, nhưng hai bên vẫn duy trì trạng thái báo động sẵn sàng chiến đấu. Nhiều cuộc xung đột suýt nổ ra vào đêm 18-4 và rạng sáng 19-4 khi lực lượng Mỹ và Iran hoạt động trong khu vực.

Theo thống kê sau trận đánh cho thấy Iran có 56 binh sĩ thiệt mạng, trong khi Mỹ mất hai phi công trực thăng AH-1 do đâm xuống biển khi né tránh hỏa lực phòng không. Chiến dịch Praying Mantis là trận hải chiến lớn nhất của Mỹ kể từ sau Thế chiến II, đánh dấu lần đầu hải quân nước này đấu tên lửa diệt hạm với đối phương. Đây cũng là lần duy nhất Mỹ đánh chìm một chiến hạm mặt nước chủ lực trong giai đoạn từ năm 1945 đến nay.

Chỉ trong buổi chiều 18-4-1988, tàu chiến và máy bay Mỹ đã đánh chìm hoặc làm hư hại nặng một nửa lực lượng tác chiến của hải quân Iran

"Chỉ trong buổi chiều 18-4, tàu chiến và máy bay Mỹ đã đánh chìm hoặc làm hư hại nặng một nửa lực lượng tác chiến của hải quân Iran. Thiệt hại trong trận đánh này nhiều hơn tổng thiệt hại của Iran sau 8 năm chiến tranh với Iraq.

Đây dường như là một trong những lý do chính khiến Iran quyết định chấm dứt chiến tranh với Iraq vào giữa năm đó", chuyên gia quân sự Tyler Rogoway nhận xét. Trong khi nhà nghiên cứu người Mỹ Craig Symonds đến từ Học viện Hải quân Mỹ, nhận định, chiến dịch Praying Mantis là một trong những trận chiến quyết định góp phần định hình và khẳng định sức mạnh thật sự của Hải quân Mỹ lúc bấy giờ.