- Việt Nam từ 'thị trường khán giả' đến điểm dừng chân của những World tour toàn cầu
- Nhiều đối tác thương mại quan tâm, mong muốn hợp tác đầu tư với Việt Nam
Vận hành kinh tế “thị trường hơn nhiều nước thị trường”
Đó là những lời nhận xét về Việt Nam được đưa ra nhân sự kiện “Vietnam Dialogue”, diễn đàn kết nối lãnh đạo doanh nghiệp và giới hoạch định chính sách hai nước Việt Nam và Đức, vừa diễn ra ở thành phố Frankfurt, Đức. Sự kiện này diễn ra vào dịp Đức và Việt Nam kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1975-2025), một mốc đánh dấu hành trình hợp tác được xây dựng từ thời kỳ chiến tranh, tái thiết và mở cửa kinh tế.
![]() |
Quang cảnh diễn đàn Vietnam Dialogue ở Frankfurt, Đức |
Trên tờ FAZ, một trong những nhật báo toàn quốc quan trọng nhất ở Cộng hòa Liên bang Đức, nhà báo Sabine Balk đã có bài viết sâu với nhận xét: “Không còn là quốc gia nghèo nhất châu Á như 3 thập kỷ trước, Việt Nam nay được xem là một trong những nền kinh tế tăng trưởng ấn tượng nhất trong khu vực”. Còn tại sự kiện “Vietnam Dialogue”, ông Oliver Massmann, luật sư người Đức đã sống tại Việt Nam 25 năm và là Giám đốc điều hành hãng luật Duane Morris, nhận định Việt Nam đã vận hành nền kinh tế “thị trường hơn nhiều nước thị trường”. Ông Massmann khẳng định: “Tôi không biết nước nào ở Đông Nam Á có môi trường kinh doanh thị trường tự do và cởi mở như Việt Nam”.
Cũng tại “Vietnam Dialogue”, các diễn giả cho rằng mục tiêu chiến lược của Việt Nam là trở thành nước công nghiệp. Với năm 1990 chỉ đạt thu nhập bình quân đầu người 98 USD, Việt Nam từng nghèo hơn phần lớn quốc gia châu Phi. Nay, con số này đạt khoảng 5.000 USD/năm, mức còn khiêm tốn nhưng thể hiện bước nhảy kinh tế phi thường. Sự trỗi dậy bắt đầu từ những năm 1990, khi Việt Nam mở cửa nền kinh tế (Đổi mới), dần thu hút doanh nghiệp nước ngoài. Hiện Việt Nam được đánh giá là nền kinh tế năng động nhất Đông Nam Á.
Những con số thống kê chính thức cho thấy 4 thập kỷ sau Đổi mới, Việt Nam đã bước ra khỏi nhóm nước nghèo và lọt vào top nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực. Quy mô GDP từ vài tỷ USD năm 1986 dự tính sẽ tăng lên khoảng 510 tỷ USD vào năm 2025, xếp thứ 32 trên thế giới. Thu nhập bình quân đầu người chạm ngưỡng 5.000 USD, đưa nước ta bắt đầu bước vào nhóm quốc gia có thu nhập trung bình cao.
Từ một nền kinh tế đóng cửa, Việt Nam đã trở thành một quốc gia xuất khẩu lớn. Kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2025 dự tính đạt khoảng 900 tỷ USD, tăng gấp hàng chục lần so với năm 1990. Việt Nam cũng trở thành điểm đến hấp dẫn cho các tập đoàn đa quốc gia. Tổng vốn FDI đăng ký đến năm 2023 đạt hơn 450 tỷ USD. Hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội được cải thiện rõ rệt. Mạng lưới đường cao tốc, cảng biển, sân bay, viễn thông phát triển mạnh. Tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 19% (năm 1986) lên 45% (năm 2025). Cơ cấu kinh tế thay đổi tận gốc: nông nghiệp từ chỗ chiếm hơn 40% GDP nay giảm xuống dưới 15%, trong khi công nghiệp - dịch vụ trở thành trụ cột của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Trên phương diện xã hội, đời sống người dân rõ ràng đổi khác hoàn toàn so với thời bao cấp: tỷ lệ hộ nghèo giảm từ hơn 58% (đầu những năm 1990) xuống chỉ còn 1-3%; tuổi thọ tăng từ 62 lên hơn 74 tuổi; phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở hoàn thành trên toàn quốc; đô thị hóa vào khoảng 45% vào năm 2025, phản ánh chất lượng phát triển rõ rệt.
Điểm đáng nói hơn, Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới như gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức thương mại thế giới (WTO), ký hàng loạt FTA thế hệ mới (CPTPP, EVFTA, RCEP). Từ một nền kinh tế đóng kín, Việt Nam trở thành “ngôi sao mới nổi” mà nhiều tổ chức quốc tế đánh giá là “câu chuyện thành công của châu Á” .
![]() |
Việt Nam đã vươn lên trở thành cường quốc xuất khẩu nông sản |
4 trụ cột, 7 giải pháp để phát triển nhanh, bền vững
Đây là cơ sở để Việt Nam xác định tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tự lực, tự cường, tự tin tiến mạnh vào kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc. Nền tảng giúp tạo động lực mạnh mẽ đưa đất nước ta tiến lên trong kỷ nguyên mới là “Bộ tứ trụ cột”. Đó là Nghị quyết số 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59 về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới”; Nghị quyết số 66 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết số 68 về phát triển kinh tế tư nhân.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới khó khăn, tăng trưởng chậm lại, Việt Nam vẫn có nhiều yếu tố thuận lợi để tăng tốc hướng đến mục tiêu nước thu nhập cao. Kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng nhanh, quy mô nền kinh tế, GDP bình quân đầu người cũng tăng lên. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, chính trị, xã hội ổn định, vị thế quốc gia tăng lên. Trong khi nợ công thế giới tăng thì tỉ lệ nợ công của Việt Nam lại giảm xuống.
Để có thể tăng trưởng nhanh và bền vững, Việt Nam đã xác định cần có một tư duy mới, tầm nhìn mới, tâm thế mới, đồng thời phải hành động quyết liệt, thực hiện những cải cách mạnh mẽ, với quyết tâm chính trị cao nhất, sự đoàn kết đồng lòng mạnh mẽ nhất của toàn dân tộc và phải có sự đồng hành, ủng hộ của bạn bè quốc tế. Việt Nam đã đưa ra 7 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để hóa giải khó khăn thách thức, làm mới các động lực tăng trưởng trong giai đoạn phát triển mới,
Trước hết là tiếp tục hoàn thiện thể chế, đổi mới công tác xây dựng và thực thi pháp luật theo hướng minh bạch, ổn định và tiệm cận các chuẩn mực quốc tế. Theo đó, cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong các lĩnh vực trọng yếu, như đất đai, khoáng sản, quy hoạch… Đồng thời, ưu tiên tập trung tháo gỡ ngay khó khăn, vướng mắc của hơn 2.887 dự án với quy mô vốn hơn 235 tỷ USD và diện tích đất khoảng 347.000 ha để khơi thông nguồn lực cho phát triển.
Tiếp đó là cần huy động tối đa mọi nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, lấy đầu tư công để “dẫn dắt”, là “vốn mồi” để huy động đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Mục tiêu là phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; phấn đấu sớm hoàn thành các dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia. Phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển kinh tế trong từng thời kỳ.
Việt Nam cũng cần tận dụng và phát huy lợi thế của không gian phát triển mới từ kết quả sáp nhập, hợp nhất các địa phương và mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Làm sao khai thác tối đa tiềm năng từ các động lực tăng trưởng mới, tạo đột phá phát triển các lĩnh vực, như khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI), lượng tử... cùng với các mô hình kinh tế mới, như các khu thương mại tự do, trung tâm tài chính... gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và mạng lưới nhân tài trong và ngoài nước.
Một giải pháp quan trọng khác để thúc đẩy tăng trưởng là phát triển và gắn kết các thành phần kinh tế, gồm kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước và khu vực FDI để tạo “sức mạnh tổng hợp” cho phát triển kinh tế đất nước. Tiếp đó, tập trung thu hút các dự án đầu tư trọng điểm trong các ngành chiến lược, có quy mô vốn lớn, có khả năng tạo đột phá và hiệu ứng lan tỏa kinh tế.
Cuối cùng là thúc đẩy hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Trong đó, nội lực phải được đặt ở vị trí quyết định; ngoại lực là nguồn lực bổ sung, hỗ trợ quá trình phát triển, bảo đảm hội nhập toàn diện, sâu rộng mà vẫn giữ vững độc lập tự chủ, nâng cao năng lực tự cường và khả năng thích ứng trước mọi biến động toàn cầu.

