“Thế” và “lực” Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN - Nhân dịp đầu xuân Ất Tỵ 2025, An ninh Thủ đô đã có cuộc trao đổi với Ủy viên Thường trực Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Thái Quỳnh Mai Dung về “thế” và “lực” Việt Nam trên trường quốc tế.

Việt Nam chủ động trong các vấn đề khu vực và toàn cầu

- Phóng viên: Thời gian gần đây, đặc biệt là tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, trong những lời đầu của bài phát biểu khai mạc, Tổng Bí thư Tô Lâm một lần nữa nhấn mạnh: “Chuẩn bị ngay về mọi mặt đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”, dưới góc độ ngoại giao, trên bình diện đối ngoại, bà có thể phân tích “thế” và “lực” của dân tộc; và vì sao đây là thời điểm mà như người đứng đầu Đảng ta nói là “hội tụ” để bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc?

- Ủy viên Thường trực Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Thái Quỳnh Mai Dung: Trên bình diện đối ngoại, khi nói về “thế” và “lực” của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra ví dụ rất sinh động và thấm thía khi nhấn mạnh “thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”. Đây chính là quan điểm của Người về mối tương quan chặt chẽ giữa hiệu quả của công tác ngoại giao với thế và lực của đất nước. Thực vậy, “lực” của một quốc gia quyết định “thế” của dân tộc đó. Một đất nước hòa bình, ổn định về chính trị, mạnh về kinh tế và khoa học công nghệ, có quan hệ hữu nghị rộng mở, người dân được sống trong hòa bình, ấm no, hạnh phúc, an toàn, thì đất nước đó tất yếu có vị thế và tiếng nói quan trọng trên trường quốc tế. Đồng thời, dù một quốc gia đất không rộng, người không đông, nhưng nếu có đường lối phát triển và chính sách đối ngoại đúng đắn, phát huy tốt “sức mạnh mềm” thì quốc gia đó vẫn có thể có được vị thế cao, được bạn bè quốc tế nể trọng. Trong cả hai trường hợp này, có thể thấy đối ngoại có vai trò và đóng góp rất quan trọng trong việc nâng cao “thế” và “lực” của một quốc gia - dân tộc.

Ảnh: Hoàng Mạnh Thắng

Ảnh: Hoàng Mạnh Thắng

Trải qua suốt chiều dài cách mạng Việt Nam từ khi giành lại độc lập đến nay, nhất là sau gần 40 năm đổi mới, như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần đúc kết, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Từ một nước không có tên trên bản đồ thế giới, Việt Nam ngày nay là một quốc gia độc lập, là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, có quan hệ ngoại giao hữu nghị với 193 nước trên thế giới, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 quốc gia.

Từ một nước bị tàn phá bởi chiến tranh, bị bao vây cấm vận, nghèo nàn, lạc hậu, thiếu đói, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình, có quy mô nền kinh tế đứng thứ 35 thế giới với kim ngạch thương mại gấp 1,5 lần GDP và mạng lưới Hiệp định thương mại đa tầng nấc. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử này chính là “thế” và “lực” mới của đất nước, là “kết quả của quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều giai đoạn cách mạng, nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta” , trong đó công tác đối ngoại đã có đóng góp rất quan trọng trong việc giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định, xây dựng cục diện đối ngoại thuận lợi, qua đó huy động nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa và nâng cao vị thế, uy tín quốc gia.

Đây cũng chính là tiền đề để đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Phát huy truyền thống đối ngoại thời đại Hồ Chí Minh luôn đồng hành cùng dân tộc, công tác đối ngoại càng cần phát huy hơn nữa vai trò tiên phong của mình để “thế” và “lực” của đất nước tiếp tục được củng cố và nâng cao hơn nữa, “tiếng chiêng” Việt Nam vang xa hơn nữa trong kỷ nguyên mới của dân tộc.

- Tổng Bí thư Tô Lâm có dẫn chứng: “Quan hệ đối ngoại tiếp tục được mở rộng và nâng tầm, thể hiện sự chủ động đóng góp tích cực của Việt Nam vào nền chính trị thế giới, kinh tế toàn cầu và văn minh nhân loại. Những thành tựu quan trọng đó đã củng cố thêm cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước qua 40 năm đổi mới, tạo nên diện mạo mới, thế và lực mới để chúng ta có thể tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình trong thời gian tới”, ở góc độ ngoại nghị viện, bà có thể đánh giá nhìn nhận rõ hơn về sự nâng tầm và chủ động này?

- Hoạt động đối ngoại của Quốc hội có từ khi Quốc hội được thành lập từ năm 1946 đến nay, thông qua việc Quốc hội đã nhất trí để Chính phủ ký với Pháp Hiệp định sơ bộ vào ngày 6-3-1946, sau đó Quốc hội đã cử đoàn đại biểu gồm 10 người do Phó Trưởng ban Thường trực Quốc hội Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm Pháp để làm cho nhân dân Pháp hiểu rõ hơn cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc của Việt Nam. Gần 80 năm qua, hoạt động đối ngoại của Quốc hội ngày càng được đẩy mạnh và mở rộng trên cả bình diện song phương và đa phương, đưa ngoại giao nghị viện đi vào chiều sâu, đóng vai trò quan trọng trong tổng thể hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, gắn với xu thế hội nhập chung cũng như sự lớn mạnh và vai trò ngày càng tăng của ngoại giao nghị viện trên thế giới, đồng thời góp phần làm cho nhân dân thế giới và bạn bè quốc tế ngày càng hiểu biết rõ hơn về đất nước, con người và nền văn hóa Việt Nam; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới và bạn bè quốc tế; nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam nói chung, của Quốc hội Việt Nam nói riêng trên trường quốc tế…

Hiện nay, Quốc hội Việt Nam đã có quan hệ với Nghị viện của hơn 180 quốc gia. Hoạt động đối ngoại song phương của Quốc hội được triển khai tích cực, hiệu quả, chú trọng quan hệ với các nước láng giềng; đưa quan hệ với các nước đối tác chiến lược đi vào chiều sâu, ổn định; thúc đẩy thực chất quan hệ với các đối tác hợp tác và bạn bè truyền thống; gia tăng sự tin cậy với các đối tác khác thông qua các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Quốc hội, các hoạt động trao đổi đoàn, tiếp xúc cấp ủy ban, các nhóm nghị sĩ hữu nghị, nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội trẻ.

Hoạt động đối ngoại của Quốc hội đã được triển khai với nhiều nội dung bao quát trên các lĩnh vực gắn với chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội; với nhiều hình thức phong phú, trực tiếp kết hợp trực tuyến, song phương kết hợp đa phương; với nhiều chủ thể, đối tác đa dạng không chỉ giữa các cơ quan lập pháp, mà còn cả cơ quan hành pháp, tư pháp và địa phương; theo hướng mở rộng và thúc đẩy quan hệ hợp tác nghị viện với các nước đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, ưu tiên các đối tác có quan hệ đặc biệt, đối tác chiến lược, bạn bè truyền thống, trong đó hợp tác nghị viện với nhiều đối tác, như Trung Quốc, Lào, Campuchia, Nga, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Cuba, Pháp... được đánh giá là điểm sáng, hình mẫu trong quan hệ song phương; đóng góp quan trọng vào việc bảo vệ và thúc đẩy các lợi ích cốt lõi của Việt Nam; phát huy vai trò của Quốc hội trong việc hoàn thiện thể chế, cụ thể hóa các cam kết quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng, hỗ trợ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Các hoạt động ngoại giao nghị viện đa phương của Quốc hội được triển khai tích cực trong khuôn khổ các cơ chế hợp tác nghị viện đa phương như Liên minh Nghị viện thế giới (IPU), Hội đồng liên nghị viện ASEAN (AIPA), Diễn đàn nghị viện châu Á - Thái Bình Dương (APPF), Liên minh nghị viện Pháp ngữ (APF), Hội nghị Đối tác Nghị viện Á - Âu (ASEP), Quốc hội Việt Nam đã tham gia tích cực, có trách nhiệm, đóng góp nhiều sáng kiến chủ động, quan trọng, tạo sự chuyển biến thực chất trong hoạt động của các tổ chức này, nâng tầm Việt Nam từ “tham gia tích cực” lên “chủ động đóng góp xây dựng và định hình luật chơi chung”, góp phần bảo vệ và thúc đẩy hiệu quả các lợi ích chiến lược về an ninh, phát triển của Việt Nam. Sự tham gia tích cực tại các diễn đàn liên nghị viện song hành với các diễn đàn quốc tế của Chính phủ, như IPU - Liên hợp quốc, AIPA - ASEAN, APPF - APEC, APF - OIF thể hiện rõ nét sự đồng hành của Quốc hội Việt Nam trong các vấn đề khu vực và toàn cầu.

Hiện thực hóa khát vọng thực hiện “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”

- Chúng ta cần chuẩn bị những gì và đổi mới hành động như thế nào trong công tác đối ngoại để tiếp tục hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế đất nước, sánh vai với các cường quốc năm châu như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc?

- Tôi cho rằng đất nước ta đang đứng trước cơ hội, vận mệnh mới để bước vào “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” song cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức chưa từng có trong bối cảnh thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, có tác động sâu rộng đối với hòa bình, hợp tác và phát triển. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, sâu sắc, mở rộng về phạm vi không gian, gia tăng cường độ và tính đối đầu; nguy cơ xung đột, hình thành các điểm nóng, kích thích chạy đua vũ trang, nguy cơ căng thẳng, đối đầu, va chạm trực diện ngày càng gia tăng. Sự trỗi dậy của chủ nghĩa cường quyền, dân tộc vị kỷ đang thách thức luật pháp quốc tế, làm xói mòn các thể chế đa phương và lòng tin vào hợp tác toàn cầu. Các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng trầm trọng, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, cạn kiệt tài nguyên... đẩy lùi các nỗ lực phát triển của nhân loại. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra cơ hội phát triển bứt phá song cũng đặt ra những thách thức gắn liền với an ninh, an toàn của xã hội và người dân.

Trước tình hình đó, để hiện thực hóa khát vọng thực hiện “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, cùng với nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, tôi thấy công tác đối ngoại càng cần phát huy vai trò tiên phong, chủ động, tích cực hơn nữa để đóng góp vào việc giữ vững độc lập, tự chủ và cục diện đối ngoại; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế; bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi và thu hút thêm nguồn lực cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Theo đó, tôi rất tâm đắc với phương châm đối ngoại đã được Tổng Bí thư Tô Lâm nêu rõ trong chỉ đạo chuẩn bị xây dựng Văn kiện Đại hội Đảng XIV là “kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; kiên định lập trường, quan điểm và thực hành nghệ thuật ngoại giao thời đại mới trên cơ sở cốt cách con người Việt Nam “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “hòa hiếu”, “lấy chí nhân thay cường bạo”; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; tăng cường đóng góp thiết thực của Việt Nam trong duy trì hòa bình ở khu vực và trên thế giới”.

Để phát huy vai trò tiên phong, đối ngoại cần chủ động, kịp thời nắm vững đặc điểm và xu thế của thời đại, những mâu thuẫn cơ bản, chiều hướng diễn biến của thời cuộc để dự báo chính xác, nắm bắt và tận dụng thời cơ, nhất là các thành tựu khoa học - công nghệ của nhân loại; giảm thiểu tác động tiêu cực; đưa đất nước “đi tắt đón đầu”, củng cố và không ngừng gia tăng vị thế và tiềm lực, tạo những bước phát triển đột phá, vượt bậc.

Trong quan hệ với các quốc gia, đối ngoại cần không ngừng gắn kết, làm sâu sắc hơn hợp tác giữa Việt Nam với các nước, qua đó gia tăng lợi ích đan xen, biến các mối quan hệ chính trị, ngoại giao tốt đẹp thành hiệu quả cụ thể về kinh tế, thương mại, đầu tư, trao đổi giao lưu văn hóa và con người, từ đó tạo thế và lực mới, góp phần đắc lực xây dựng diện mạo, sức mạnh và vị thế của đất nước.

Đối ngoại đa phương cần góp phần nâng tầm và phát huy vị thế của Việt Nam thông qua chủ động mở rộng và làm sâu sắc hơn nữa đóng góp của Việt Nam cho hòa bình, hợp tác, phát triển và tiến bộ của nhân loại, phát triển kinh tế toàn cầu và duy trì hòa bình, ổn định khu vực và thế giới, chủ động tham gia giải quyết các vấn đề chung của thế giới trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau và cùng có lợi.

- Tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh, phức tạp với nhiều nhân tố khó dự báo, tác động đa chiều tới môi trường an ninh, chính trị, đến công cuộc đổi mới của đất nước, trong đó có nhiều vấn đề chưa có tiền lệ. Vậy tư duy, hành động và đổi mới hoạt động đối ngoại như thế nào trong bối cảnh mới?

- Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài viết rất quan trọng ngày 16-9-2024 về “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn mới”, trong đó nhấn mạnh “đất nước đang đứng trước thời điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền để đưa dân tộc tiếp tục tiến lên đang đặt ra cấp bách”. Tôi cho rằng công tác đối ngoại cũng cần có tư duy mới, cách làm mới, phương thức lãnh đạo mới nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của tình hình mới, trong đó công tác đối ngoại cần được coi là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của cả hệ thống chính trị.

Phương thức triển khai đối ngoại cần kết hợp đa tầng sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại; kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, trong đó có ngoại giao nghị viện và đối ngoại nhân dân; giữa ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa với ngoại giao kinh tế làm trọng tâm; giữa ngoại giao với quốc phòng, an ninh với kinh tế - xã hội Việt Nam làm nền tảng.

Trong thời điểm lịch sử này, hiệu quả hoạt động đối ngoại của Quốc hội càng cần được nâng cao hơn nữa, góp phần thể chế hóa chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng, quyết định các vấn đề quan trọng trong lĩnh vực đối ngoại, thúc đẩy giám sát việc thực hiện các chính sách, pháp luật về đối ngoại và cam kết quốc tế của Việt Nam; phát huy vai trò của Quốc hội trong việc hoàn thiện thể chế, cụ thể hóa các cam kết quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng, hỗ trợ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; tiếp tục phát huy vai trò, lợi thế của ngoại giao nghị viện gắn với hoạt động đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân thực hiện chủ trương xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, đồng thời làm sâu sắc hơn quan hệ song phương giữa Quốc hội Việt Nam với nghị viện các nước theo hướng đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; góp phần nâng cao uy tín của Quốc hội và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Công tác đối ngoại của Quốc hội cần chủ động, kịp thời phát hiện cơ hội, thách thức, đóng góp vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập nước; nâng tầm, mở rộng đóng góp của Việt Nam cho hòa bình, hợp tác, phát triển và tiến bộ của nhân loại, lan tỏa mạnh mẽ “phiên bản Việt Nam độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, hữu nghị, phát triển, phồn vinh, hạnh phúc”; xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao vừa hồng, vừa chuyên. Với phương thức kết hợp chặt chẽ ba trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, gắn kết ngoại giao với lòng dân, ngoại giao song phương và đa phương, các công cụ chính trị, kinh tế, luật pháp quốc tế, thông tin đối ngoại, ngoại giao thời đại mới cũng sẽ tập trung vào các trọng tâm ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, ngoại giao môi trường, ngoại giao nhân quyền, thông tin, kết hợp chặt chẽ ba trụ cột đối ngoại với quốc phòng, an ninh.

Trên tinh thần thể chế hóa Nghị quyết của Trung ương lần thứ 10 khóa XIII và tạo tiền đề chuẩn bị ngay về mọi mặt để bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, công tác đối ngoại của Quốc hội cần tiếp tục phát huy tính đặc thù, “sức mạnh mềm” của ngoại giao nghị viện, kết hợp hài hòa với đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, góp phần truyền tải thông điệp mạnh mẽ về hình ảnh một Quốc hội Việt Nam nói riêng và đất nước Việt Nam đổi mới, năng động và hành động, tăng cường sự hiểu biết của chính giới và nhân dân các nước, tạo dấu ấn Việt Nam; góp phần vào thành công chung của công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước; khẳng định vị thế của ngoại giao nghị viện trong nền ngoại giao toàn diện, hiện đại của đất nước, cũng như ngoại giao nghị viện khu vực và thế giới.

Điểm cuối cùng và then chốt nhất là cần xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại chuyên nghiệp và bộ máy làm công tác đối ngoại hiện đại để thực sự “sánh vai các cường quốc năm châu”. Bộ máy làm công tác đối ngoại cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả và hiện đại, đi đầu trong ứng dụng và chuyển đổi số, linh hoạt, kịp thời thích ứng với những chuyển biến mau lẹ của thế giới.

- Trân trọng cảm ơn bà về cuộc trao đổi!