Quà sáng ngoài đường

ANTD.VN - Phần lớn người nước ngoài đến Việt Nam đều có chung thắc mắc, từ người lớn đến con trẻ đều ăn sáng ở quán, trong khi ai cũng phàn nàn chuyện an toàn vệ sinh thực phẩm và ẩm thực đường phố chưa mấy vệ sinh?

Cái thú quà vặt cổng trường này của học sinh không cầu kỳ nhưng cũng đủ để trở thành một phần không thể thiếu của một thời cắp sách đến trường

Sự thay đổi từ mô hình xã hội truyền thống sang mô hình xã hội hiện đại cuối thế kỷ XIX đã làm thay đổi thói quen ăn cơm sáng của người Hà Nội. Từ ăn cơm sáng đã chuyển sang ăn quà sáng. Sự thay đổi này kéo theo nhiều loại quà mới xuất hiện như: phở, bánh Tây (nay gọi là bánh mì), các loại bánh ngọt, sữa... làm cho quà sáng phong phú hơn bên cạnh các loại quà vốn có từ trước đó gồm: xôi, bánh cuốn, bún ốc, bún chấm...

Quà sáng đã trở thành thói quen và nhu cầu của thị dân, nhất là thị dân Hà Nội, nó không thể thiếu đối với người lớn và con trẻ. Quà sáng cung cấp năng lượng cho người lớn có sức làm việc và con trẻ có sức để ngồi yên trong lớp học hành. Để đáp ứng nhu cầu, nửa đầu thế kỷ XX, nhiều quán bán quà sáng xuất hiện trên các phố, cùng với những người bán rong trên phố.

Nho giáo ảnh hưởng đến cả miếng ăn và cách ăn. Chỉ có người lớn mới được quyền ăn ở quán, có bàn ghế đàng hoàng, ngồi ngoài đường nhai nhồm nhoàm là thiếu lòng tự trọng. Vì thế ngồi ăn ở các quán vỉa hè chỉ có người lao động. Trước khi con cái đến trường, người lớn trong gia đình ra phố mua quà sáng về cho con ăn trong nhà, không có chuyện cha mẹ dắt con ra quán. Ăn xong nếu nhà giàu thì có xe tay gia đình đưa đến trường, nhà không có trẻ phải tự đi vì thời kỳ đó đường phố vắng vẻ.

Chuyện cho trẻ tiền ăn sáng cũng trở thành vấn đề tranh luận trên mạng xã hội. Bên thì cho rằng không nên đưa tiền cho trẻ ăn sáng, bên kia lại quan niệm khác, cho rằng đưa tiền cho trẻ để chúng tự ăn quà sáng là rèn cho chúng tính tự lập.

Mặt khác, nếu trẻ không đòi hỏi ăn quà này, quà kia thì ăn gì là do người lớn quyết định. Không có chuyện người lớn cho trẻ vài xu để chúng tự ăn quà sáng, bởi quan niệm xưa, đứa trẻ còn quá nhỏ mà sớm biết đồng tiền sẽ sớm có thói quen tiêu tiền và lớn lên sẽ tiêu như phá thì không thể có tiền bao lo cho gia đình. Khi trẻ đã học trung học, lúc đó cha mẹ tin tưởng có thể cho vài xu, vài hào tiêu vặt và mua sắm những thứ cần thiết.

Thời bao cấp do cuộc sống thiếu thốn khó khăn nên từ ăn quà sáng nhiều gia đình trở lại với ăn cơm sáng như từng có trong lịch sử. Rất ít gia đình có điều kiện mua quà sáng cho con ăn và nếu có thì cũng chỉ là gói xôi lúa. Trong giai đoạn này, người lớn trong các gia đình đều phải đi làm nên các gia đình có điều kiện đã thay đổi quan niệm, họ cho con vài hào ăn quà và dĩ nhiên ở các quán phở mậu dịch quốc doanh hiếm thấy trẻ ngồi chễm chệ trên ghế ăn phở dù phở không người lái. Nhiều gia đình nấu cơm ăn sáng. Cả nhà ăn rồi sau đó người lớn cho vào cặp lồng mang đến nơi làm việc để ăn trưa. Cơm và thức ăn còn lại để cho con học buổi sáng về ăn.

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến

Vào mùa đông, các nhà xới cơm vào cái liễn sau đó ủ trong chăn bông để giữ ấm. Cách này chỉ có tác dụng giữ ấm được vài tiếng nhưng còn hơn cơm lạnh ngắt. Lại có nhà lo ăn sáng bằng cách bữa chiều hôm trước nấu dư cơm để sáng hôm sau có cơm nguội rang ăn. Vì thực phẩm bán bằng phiếu và theo tiêu chuẩn nên nhà nào mua mỡ thì thôi mua thịt hoặc ngược lại. Vì mỡ không sẵn nên cơm rang chỉ có chút nhờn nhờn cho khỏi cháy chảo.

Có hôm hết nước mắm hay xì dầu đành phải thay bằng nước muối. Lại thêm gạo mậu dịch để trong kho vài năm mới mang bán nên cơm rang vừa khô vừa rời rạc. Không ăn thì đói không học được nên trẻ nên không thích cũng phải ăn. Vì biết nhà thiếu thốn, hàng xóm cũng thiếu thốn như nhà mình nên trẻ con thời đó không bao giờ mè nheo, đòi hỏi. Và chúng cũng biết có đòi hỏi cũng không được nên chỉ còn cách trệu trạo nhai và nuốt rồi đi học.

Lại có giai đoạn Hà Nội ăn độn mì nên bữa sáng có khi là mì sợi nấu, bánh mì hay bánh bao. Mì sợi nấu với nước lã cho tí mì chính để đánh lừa vị giác. Mùa có cà chua thì cho một hai quả, nồi mì có màu hồng đánh lừa thị giác cũng đỡ ngắc ngứ hơn. Không có cà chua nồi mì trắng như mắt ma.

Rồi những năm 1973, 1974, Hà Nội ăn sáng bằng bánh mì, thời điểm đó mỗi gia đình được phát sổ bánh mì. Bánh mì được đựng trong các xe đẩy và nhân viên ngành lương thực đẩy cái xe ra đầu phố, cứ mang sổ ra lấy, lấy bao nhiêu thì họ gạch sổ. Cũng có bánh mì ngọt nặng 100gram cong cong nên gọi là bánh sừng bò. Giai đoạn thập niên 80 kinh tế đất nước khó khăn nên rất nhiều gia đình Hà Nội nấu cơm ăn sáng, dĩ nhiên trẻ con cũng phải ăn cơm.

Rồi chuyện ăn quà sáng cũng thay đổi vào đầu thập niên 1990 khi kinh tế đất nước khá lên. Hình như không muốn con cái phải trệu trạo nhai cơm rang như mình nên cha mẹ cố gắng cho con quà sáng trước khi con đến lớp. Và quan niệm cũng có nhiều thay đổi, nhất là ngày nay. Có gia đình đưa tiền cho con để chúng tự ăn. Lại có gia đình vẫn giữ nếp xưa mua về cho con ăn và cũng không ít phụ huynh dẫn con đi ăn rồi đưa đến lớp.

Chuyện cho trẻ tiền ăn sáng cũng trở thành vấn đề tranh luận trên mạng xã hội. Bên thì cho rằng không nên đưa tiền cho trẻ ăn sáng mà người lớn nên cho chúng ăn để nhìn thấy chúng ăn vào miệng, ăn những thứ vệ sinh. Nhưng bên kia lại quan niệm khác, cho rằng đưa tiền cho trẻ để chúng tự ăn quà sáng là rèn cho chúng tính tự lập đồng thời cũng cho chúng biết cách tiêu tiền. Bên nào cũng có cái lý. 

Tuy nhiên có một thực tế là có trẻ chỉ dùng một phần tiền cha mẹ cho để ăn sáng, số tiền còn lại chúng để dùng vào việc khác, ví dụ như chơi trò chơi điện tử. Phần lớn người nước ngoài đến Việt Nam đều có chung thắc mắc, từ người lớn đến con trẻ đều ăn sáng ở quán, trong khi ai cũng phàn nàn chuyện an toàn vệ sinh thực phẩm và ẩm thực đường phố chưa mấy vệ sinh? Đó là thắc mắc rất đáng lưu tâm.