Số phận của cô bé 15 tuổi bị bán sang xứ người làm vợ người lạ và 2 lần tự phá thai

ANTĐ - Những gì em kể với chúng tôi đã xảy ra cách đây đúng 10 năm. Lúc đó em vẫn là một cô bé gái mong manh bị đẩy đến một nơi hoàn toàn xa lạ, sống với những con người xa lạ. Và nay mặc cho thời gian qua đi, ký ức buồn đã khiến em trở nên khắc nghiệt với chính cuộc sống của mình đến nỗi không còn có thể cất lên nổi một nụ cười!... 

Mảnh đời mang tên “Nguyễn Thị Loan” 

Bỏ lại đằng sau thị trấn Đồi Ngô, thị trấn Chũ, cắt ngang khu Kép 2, con đường đất đỏ phía trước nhấp nhô, quanh co quện với cái nắng hanh của mùa lạnh dẫn lối chúng tôi tới xã Thanh Hải, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Trên mảnh đất này còn chở một mảnh đời, một số phận đầy khắc nghiệt. Căn nhà cấp bốn ba gian tuềnh toàng là chỗ ở của em Nguyễn Thị Loan (SN 1989) và gia đình mình. Là con thứ 2 trong một gia đình thuần nông có 1 anh trai và 1 em gái, những tưởng Loan cũng được hưởng sự vô tư hồn nhiên của tuổi mới lớn như bao đứa trẻ đồng trang lứa khác thì… 

Năm 2004, khi vừa tròn 15 tuổi và mới học hết lớp 6, cái sự hồn nhiên đó bỗng chốc vụt bay kể từ ngày em quyết định rời xa mái trường, thầy cô và chúng bạn để ở nhà giúp bố mẹ trông em, làm ruộng. Lý do để đưa em đến quyết định này cũng hết sức trẻ con, bởi khi đi học Loan lớn nhất lớp nên thường bị bạn bè trêu đùa đến mức xấu hổ phải nghỉ học. Sinh ra trong một gia đình lấy việc nông làm nguồn sinh sống chính nhưng gia đình Loan cũng muốn cho con học hành đến đầu đến đũa, nên khi biết tin con nghỉ học, bố mẹ Loan thường xuyên trách mắng. 

Đúng vào thời gian chấp chênh của những suy nghĩ bồng bột tuổi mới lớn này là sự xuất hiện của bà Nguyễn Minh Nguyệt - người cùng xóm cách nhà em chừng nửa cây số, mỗi khi gặp ở đâu đều gọi Loan vào và rủ em sang Trung Quốc lấy chồng, nhưng em đều nhất quyết từ chối. Thậm chí người đàn bà ấy còn đến tận nhà và bảo bố mẹ cho em sang Trung Quốc lấy chồng. Không chỉ một lần, mà nhiều lần. Có hôm bà Nguyệt sang nhà đặt vấn đề nhưng mẹ em đã nói thẳng là không đồng ý. Sau đó, bà Nguyệt lại nhờ người em họ của mình tên là Linh ở thôn Núi Năng, xã Kiến Thành, huyện Lục Ngạn đến gặp bố Loan và bảo cho em sang Trung Quốc lấy chồng và đã bị bố em mắng, đuổi cô Linh về.  Sau lần đó thì bà Nguyệt lại rủ em sang Trung Quốc đi chợ bán dao, liềm. Em đã tin vào những lời mà bà Nguyệt dụ dỗ và đồng ý đi bán dao...

Bước chân gió bụi 

Như một định mệnh, sự nhắm mắt đưa chân của em đúng vào buổi chiều ngày 20-10-2004 ấy, Loan nhớ lại: “Hôm đó, nhà không có ai, em ngồi một mình trong nhà thì nghe tiếng gọi của bà Nguyệt. Bà gọi em ra và nói rằng cô Linh, em họ bà đã lấy được hàng; nếu có đi Trung Quốc bán hàng thì tối sang nhà bà. Tối đến, em trốn nhà, bỏ bố mẹ sang nhà bà Nguyệt. Sang đến nơi, em không thấy cô Linh đâu, định quay về nhà thì bà Nguyệt lấy mũ bảo hiểm xe máy chụp ngay lên đầu em, kéo em ra xe và chồng bà Nguyệt là ông Trần Mạnh Nhàn đèo em thẳng sang thôn Núi Năng, xã Kiến Thành. Đến nơi, em được đưa đến nhà một người mà bà Nguyệt giới thiệu là nhà bà ngoại của cô Linh. Em ở lại đây 3 ngày và thời gian này, bà Nguyệt luôn dặn em không được đi ra khỏi nhà vì sợ mọi người biết sẽ không đi được Trung Quốc bán hàng. 

Đến chiều ngày thứ 3 thì xuất hiện một người đàn bà xa lạ được giới thiệu là chị gái của cô Linh từ Trung Quốc sang và nói với em là sáng sớm hôm sau sẽ lên đường đi Trung Quốc. Như đúng kế hoạch, hôm sau em cùng người đàn bà xa lạ cùng một chị tên là Huyền đến đưa em ra thị trấn Chũ. Sau đó, bà Linh ra thị trấn Chũ lấy một ít dao, liềm và bắt xe để em và bà cùng đi Bắc Giang, đến nơi em và bà lại bắt xe đi Lạng Sơn và đến cửa khẩu Chi Ma. Đến đây em được bà Linh đưa vào nhà một người quen để ngủ. Đến khoảng 3 giờ sáng ngày hôm sau bà Linh đưa em sang Trung Quốc. Sau khi sang đến đất Trung Quốc, khoảng 8 giờ sáng thì ngay lập tức bà Linh lại bắt xe đưa em đi sâu vào đất liền và đến 2 giờ chiều thì xe dừng lại. Bà Linh đưa em vào nhà một người Trung Quốc giới thiệu là anh trai chồng và bảo em ngủ lại sáng hôm sau sẽ đưa em đi chợ bán dao, liềm. Do đi một quãng đường dài nên em đã ngủ thiếp đi vì quá mệt. Sáng thức dậy, em không thấy bà Linh còn ở đó nên lập tức bỏ đi tìm thì bị chủ nhà giữ lại. Không một ai quen biết trong ngôi nhà toàn người Trung Quốc, em bất lực ôm mặt khóc cả ngày và đòi được về Việt Nam. Một đêm dài không ngủ, em đờ đẫn quay quắt trong không gian xa lạ, đến ngày hôm sau thì chủ nhà đã gọi điện cho một người Việt Nam tên Huệ lấy chồng gần đấy đến nói chuyện với em thì em mới biết mình đã bị lừa bán rồi, gia đình Trung Quốc mà em đang ở chính là nhà đã bỏ tiền mua em và em không thể về được”… 

Những giọt nước mắt đắng cay 

Lạc bước vào một nơi mà Loan cũng không biết đó là vùng nào, chốn nào mà chỉ biết xung quanh núi rừng hoang vu, thưa thớt người. Bơ vơ trong một gia đình không thân quen, Loan bắt đầu chuỗi ngày đắng cay gắn liền với nước mắt. Loan nhớ lại: “Ngày đầu tiên ở với gia đình người Trung Quốc đã mua em, do bất đồng ngôn ngữ nên em thường xuyên bị họ đánh. Em được mua với thời giá năm đó là vào khoảng 10 triệu đồng để làm vợ người có tên Hoàng Văn Héo, con trai thứ 2 trong một gia đình Trung Quốc có 4 người con. Ngày qua ngày, sáng dậy sớm nấu cháo, nấu cơm cho mọi người ăn và em theo gia đình Trung Quốc đó lên rừng làm rẫy, trồng lúa, làm ruộng. Khi đó em mới 15 tuổi và bị ép làm vợ của Hoàng Văn Héo, thời gian đầu em không nghe và cự tuyệt nên thường xuyên bị Hoàng Văn Héo đánh đập. Em bất lực trước số phận và 2 lần mang thai cũng là 2 lần em tự bỏ đi đứa con mình đang mang trong người. Lần đầu em cố tình ngã trong rừng để làm hỏng cái thai; lần thứ 2 thì trong một lần bị Héo đánh, vì không biết em đang mang thai nên Héo đánh đập túi bụi, đạp mạnh vào bụng khiến em đã mất đi giọt máu ấy. Đau đớn, tủi nhục và ân hận, không chịu được kiếp sống đó, em đã 2 lần bỏ trốn và bất thành đủ để em nếm và hiểu được nỗi đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần qua những trận roi vọt của người em bị ép lấy làm chồng. 

Lần thứ nhất, khi theo gia đình chồng lên đồi làm rừng, nhân lúc họ mải mê làm em liền trốn về nhà lấy bộ quần áo thì bị họ theo về và sự trừng phạt của họ dành cho em là những trận đòn. Lần thứ hai, em trốn ra được đến một trạm xe thì bị bắt lại vì gia đình người Trung Quốc đã gọi điện cho người quen làm ở trạm xe bắt em lại. Em bị lôi lên nhà và Hoàng Văn Héo bắt đầu tát và đánh đập em một cách tàn nhẫn. Em không biết làm thế nào để phản kháng ngoài việc nằm im để nếm trải những cơn đau triền miên. Mọi phương cách để thoát thân hay gửi tin về cho gia đình tại Việt Nam đều không thực hiện được. 

Cho đến hơn 1 năm sau, cuối năm 2005, em được chủ nhà cho phép viết thư gửi về nhà qua một người Việt Nam đi hái hồi thuê cầm về hộ. Tháng 1-2006, em cũng không còn nhớ nổi ngày nào, chỉ biết rằng đó dường như là ngày hạnh phúc nhất trong quãng đời lưu lạc của em khi em nhìn thấy bố. Bố đã lần theo địa chỉ tìm đến nơi em ở, bố nói với gia đình người Trung Quốc cho em về thăm nhà nhưng họ nói chưa có con nên không đồng ý. Và lại một lần nữa hẫng hụt… nhìn bố ra về! Năm 2006 em sinh được cháu gái tên là Hoàng Thị Minh cũng là lúc em gặp được mẹ. Và cũng giống lần trước, gia đình người Trung Quốc cũng nhất quyết không cho em về Việt Nam thăm gia đình. Sau 8 tháng sinh con, em đã xin gia đình người Trung Quốc cho em và con về thăm nhà nhưng họ chỉ đồng ý cho em về và giữ con ở lại. Họ cho phép em đi nhiều nhất là 10 ngày. Thời khắc trở về nhà là cả một sự buồn vui lẫn lộn, bình yên bên vòng tay người thân nhưng nỗi nhớ con day dứt, tình máu mủ mẹ con đang chờ đợi nơi cùng cực khổ đau, sự dằn vặt, giằng xé của người mẹ nếu bỏ con không quay trở lại. Sự thật phơi bày trước mắt em lúc đó là một cuộc đời giữa ngã 3 đường mà không thể quyết định được là đi hay ở lại”… 

“Em cũng không biết phải làm thế nào, bố mẹ mong em ở lại, nhưng xa con em nhớ lắm. Sang đó thì khổ lắm, em không chịu được cảnh quanh năm ăn cháo… Nhưng vì con em đã quay trở lại luôn ám ảnh em. Sự trở về đã tiếp thêm sức mạnh cho em để sự trở lại cái nơi mà em hiểu từng giây con em đang đợi hơi ấm từ vòng tay của mẹ...” - Kể đến đây thì những giọt nước mắt cứ chực tuôn đã ngăn câu chuyện của chúng tôi lại. Loan bảo không muốn nhắc lại chuyện cũ, nó buồn và thấm đẫm nước mắt, chỉ biết rằng giờ đây Loan và cô con gái của mình đang sống bình yên trên mảnh đất quê hương sau khi vay mượn để dùng số tiền đó “chuộc thân”… 

Thôn Kim Thạch quay ngược 50km, thành phố Bắc Giang đang vặn mình. Cơn chuyển đổi đầy ánh đèn của cửa hàng mới mở, lấp lánh ánh nắng phản chiếu từ cửa kính của những ngôi nhà mới xây, con đường nhựa thẳng tắp, rộn rã tiếng xe, tiếng máy của các công trình đang xây dựng dở dang. Và một thành phố với đầy sức quyến rũ ấy, ra khỏi sự hiện đại mà ánh đèn rực rỡ chưa thể chiếu tới, người ta vẫn gặp những mảnh đời ẩn khuất, những thân phận không biết tỏ cùng ai. 10 năm trước, Nguyễn Thị Loan khi ở lứa tuổi quá trẻ đã phải chịu sự giằng xé của nội tâm, sự xô đẩy của hoàn cảnh và số phận trong cuộc đời. Để giờ đây lấn át là sự già dặn, xen sự ân hận lẫn cả oán hận. Đôi mắt ấy, đôi mắt đẫm nước luôn lẩn trốn ánh nhìn từ phía trực diện. Vẫn đôi mắt ấy luôn bị che bởi bàn tay thô ráp để kiếm tìm sự bình yên. Trong ngôi nhà tuềnh toàng, giữa câu chuyện của chúng tôi là một người anh khom mình thu lu nuốt lấy từng lời, bố Loan mỗi khi nghe lại chuyện cũ của con ngồi thất thần, người mẹ gầy gò của em như đang mường tượng về những tháng ngày gian truân của con. Chúng tôi nhìn Loan, hậu câu chuyện không có nổi một nụ cười đã làm nên một dấu hỏi lớn trong chúng tôi rằng ở một góc khuất nào đó vẫn còn những mảnh đời giống như em, và nếu may mắn trở về các em sẽ mất bao lâu để có thể quên đi quá khứ… Nói lời chào, xe đã chuyển bánh trên con đường đỏ ối nhưng chúng tôi vẫn ngoái cổ nhìn lại ngôi nhà, bóng dáng Loan và người thân của em như nặng nhọc tiễn xa lưu luyến.

(Tên nhân vật trong bài đã được thay đổi)