Lý do nào khiến Hải quân Mỹ, NATO vẫn tin dùng tên lửa chống hạm cận âm thay vì siêu âm?

ANTD.VN - Tên lửa hành trình chống hạm siêu âm với tầm bắn xa, tốc độ cao và khả năng công phá lớn được cho là ưu việt hơn hẳn và sẽ sớm thay thế vị trí của tên lửa hành trình chống hạm cận âm trong tác chiến hải quân. Tuy nhiên, thực tế không hẳn như vậy. 

Tuy nhiên thực tế lại cho thấy trái ngược với Nga hay Trung Quốc luôn chú trọng vào phát triển tên lửa siêu âm thì Mỹ, Pháp... vẫn tập trung vào việc chế tạo tên lửa cận âm thế hệ mới có tính năng tàng hình như LRAM, Exocet Block 3 hay NSM.

Trình độ kỹ thuật của các quốc gia trên dĩ nhiên là thừa khả năng thiết kế và sản xuất tên lửa chống hạm siêu âm, ví dụ như Trung Quốc đã phải tìm cách đánh cắp thiết kế bia bay hành trình cao tốc GQM-163 Coyote để sao chép thành YJ-12 mà họ vẫn xưng tụng là “tên lửa diệt hạm tốt nhất thế giới”.

Nguyên nhân chính khiến tên lửa diệt hạm cận âm vẫn còn đất sống, thậm chí còn nhận sự tin tưởng cao là vì lý do nó có nhiều ưu điểm hơn hẳn loại siêu âm.

Tên lửa diệt hạm cận âm RGM-84 Harpoon và MM40 Exocet Block 3 (trái) cùng với tên lửa diệt hạm siêu âm P-800 Oniks và P-270 Moskit (phải)

Tên lửa diệt hạm cận âm RGM-84 Harpoon và MM40 Exocet Block 3 (trái) cùng với tên lửa diệt hạm siêu âm P-800 Oniks và P-270 Moskit (phải)

Đầu tiên, tên lửa chống hạm siêu âm muốn đạt tầm bắn tối đa sẽ phải duy trì quỹ đạo bay cao trong hầu hết hành trình, nguyên nhân chính là do sức cản của không khí. Ở độ cao thấp, mật độ không khí dày đặc gây sức cản lớn sẽ làm cho tên lửa tiêu hao nhiên liệu rất nhanh.

Lấy ví dụ tên lửa Yakhont muốn vượt qua quãng đường 300 km sẽ phải bay hành trình dài ở độ cao tới 14.000 m, còn nếu bay thấp ngay từ đầu thì tầm bắn của tên lửa sẽ chỉ còn 120 km.

Tiếp theo, tên lửa siêu âm có kích thước lớn hơn tên lửa cận âm rất nhiều do phải mang theo một động cơ khỏe và lượng nhiên liệu lớn, dẫn đến làm tăng diện tích phản xạ radar (RCS), thêm vào đó nhiệt lượng tỏa ngùn ngụt từ động cơ để đẩy vận tốc tên lửa lên siêu âm cộng với ma sát không khí sẽ làm cho độ bộc lộ hồng ngoại (IR) của tên lửa siêu âm cao hơn tên lửa cận âm.

Trong khi đó, tên lửa cận âm có khả năng bay thấp trong hành trình dài, diện tích phản xạ radar và bộc lộ hồng ngoại đều rất thấp nên cự ly bị phát hiện ngắn hơn tên lửa siêu âm rất nhiều.

Tên lửa siêu âm như P-270 Moskit có thể bị phát hiện từ cự ly 30 - 50 km còn tên lửa cận âm như Exocet hay Uran chỉ lộ diện ở cự ly dưới 15 km. Đặc biệt hơn các tên lửa chống hạm cận âm thế hệ mới như NSM (Naval Strike Missile) của Na Uy được chế tạo với lớp vỏ composite khiến cho việc nhận biết còn khó khăn gấp nhiều lần.

Kích thước khủng, độ cao hành trình lớn và nhiệt lượng tỏa ra mạnh mẽ từ động cơ khiến Moskit có thể bị phát hiện từ xa

Kích thước khủng, độ cao hành trình lớn và nhiệt lượng tỏa ra mạnh mẽ từ động cơ khiến Moskit có thể bị phát hiện từ xa

Có ý kiến cho rằng mặc dù bị phát hiện từ xa nhưng do có tốc độ rất lớn, thời gian để cho đối phương phản ứng lại rất ngắn nên việc bị lộ diện sớm là không quan trọng.

Nhưng lại phải cân nhắc thêm vấn đề do có tốc độ rất lớn khiến tên lửa siêu âm trong giai đoạn cuối của hành trình không thể thực hiện các vận động phức tạp để đánh lừa hệ thống phòng không như tên lửa cận âm mà gần như là một đường bay thẳng tắp, cộng với việc ngay cả ở giai đoạn cuối tên lửa siêu âm vẫn bay ở độ cao lớn hơn tên lửa cận âm khá nhiều (từ 15 -30 m) nên có thể bị tên lửa phòng không có thời gian phản ứng nhanh, được thiết kế đặc trị tên lửa đối hạm siêu âm như RIM-116 bắn hạ.

Nhìn sang tên lửa cận âm như Exocet hay Uran, độ cao hành trình giai đoạn cuối đều dưới 5 m, đây là độ cao gần như bất khả thi cho tên lửa phòng không, cho nên dù có phát hiện được từ xa 15 km cũng chỉ có thể đánh chặn bằng pháo bắn nhanh khi tên lửa đã tới rất gần, thời gian để phản ứng lại mối đe dọa từ tên lửa cận âm là không hề nhiều hơn tên lửa siêu âm.

Thực tế chiến trường đã cho thấy tên lửa chống hạm cận âm gần như vô hình đối với hệ thống cảnh giới của tàu chiến, có thể lấy ví dụ việc tàu USS Stark của Mỹ hay INS Harnit của Israel cho tới khi bị trúng tên lửa Exocet và C-802, hệ thống phòng thủ của tàu đều không có được chút phản ứng nào.

Tàu USS Stark sau khi bị trúng tên lửa Exocet

Tàu USS Stark sau khi bị trúng tên lửa Exocet 

Tốc độ cao của tên lửa siêu âm ngoài gây khó khăn cho đối phương thì cũng gây không ít trở ngại cho chính bản thân nó.

Đầu dò của tên lửa siêu âm phải hoạt động trong môi trường khắc nghiệt hơn nhiều so với tên lửa cận âm, nó có rất ít thời gian để có thể khóa mục tiêu trong giai đoạn cuối của hành trình, cũng đồng nghĩa với việc ít thời gian hơn để phân biệt đâu là mục tiêu thực sự khi phải đối đầu với các biện pháp gây nhiễu, mồi bẫy của đối phương.

Ngoài ra do phải hy sinh không gian cho động cơ và nhiên liệu, dẫn đến đầu đạn của tên lửa siêu âm khá nhỏ so với tổng trọng lượng: tên lửa Yakhont có trọng lượng 3.000 kg nhưng chỉ mang được đầu đạn 250 kg trong đó Harpoon chỉ nặng có 691 kg nhưng đã mang được 1 đầu đạn nặng tới 221 kg.

Bên cạnh đó giá thành của tên lửa siêu âm cũng đắt hơn tên lửa cận âm nhiều do được chế tạo bằng những vật liệu đặc biệt để có thể chịu được gia tốc và nhiệt độ cao khi hoạt động ở tốc độ siêu âm.

Qua những điểm trên có thể thấy tên lửa siêu âm hay cận âm vẫn có những ưu nhược điểm của riêng mình, ưu thế của tên lửa siêu âm chính là nhược điểm của tên lửa cận âm và ngược lại, chưa thể nói rằng tên lửa siêu âm vượt trội hoàn toàn và sẽ sớm thay thế tên lửa cận âm.

Việc các lực lượng hải quân lựa chọn trang bị cho mình tên lửa hành trình chống hạm siêu âm hay cận âm còn phải phụ thuộc rất nhiều vào chiến thuật và từng đối tượng tác chiến cụ thể.