Cho vay tiền lãi suất bao nhiêu thì gọi là "nặng lãi"?

ANTD.VN - Hỏi: Tôi cho người khác vay 50 triệu đồng lãi suất 1,5%/tháng thì có phải là cho vay nặng lãi không?

Phạm Quang Diệu (Đống Đa, Hà Nội)

Luật sư Vũ Quang Vượng (Giám đốc Công ty Luật TNHH Quang Vượng; Địa chỉ: Số 6, ngõ 29 Láng Hạ, Ba Đình, Hà Nội)

Trả lời: 

Tại Điều 201 - Bộ luật Hình sự quy định về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự như sau:

1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 5 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 200 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm.

Về mức lãi suất trong giao dịch dân sự, Điều 468 - Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định như sau:

1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

Từ các quy định trên, để cấu thành tội cho vay lãi nặng, bạn phải đáp ứng các dấu hiệu sau:

1. Lãi suất cho vay gấp 5 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự (tức từ 100%/năm trở lên).

2. Thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng.

Xét trường hợp của bạn, lãi suất cho vay của bạn là 1,5 %/tháng tức là 18%/năm. Theo các quy định trên, lãi suất cho vay của bạn chưa gấp từ 5 lần mức lãi suất cao nhất được quy định trong giao dịch dân sự và thực tế là lãi suất của bạn mới chỉ là 18%/năm, còn thấp hơn mức lãi suất cao nhất theo quy định của Điều 468 - Bộ luật Dân sự. Do vậy, bạn không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi này.