Phản ứng sau tiêm chủng: Xử trí thế nào cho đúng

ANTD.VN - Phản ứng sau tiêm chủng xảy ra là điều khó tránh khỏi và thường khiến nhiều cha mẹ lo lắng, không biết phải làm thế nào. Các phản ứng này có thể xảy ra trước hoặc sau khi tiêm chủng bất kỳ loại vắc xin nào. Vậy xử trí thế nào khi bị phản ứng sau tiêm chủng để tránh để lại những hậu quả đáng tiếc.

Phản ứng sau tiêm chủng theo định nghĩa là “bất kỳ sự kiện sức khỏe bất thường nào xảy ra sau tiêm chủng có thể liên quan đến tiêm chủng hoặc không liên quan đến tiêm chủng”.

Phản ứng sau tiêm chủng: Xử trí thế nào cho đúng ảnh 1 

Tiêm chủng để phòng bệnh, bảo vệ sức khỏe

Mặc dù các phản ứng sau tiêm chủng xảy ra là điều khó tránh khỏi nhưng lợi ích to lớn của vắc xin đem lại là lớn hơn bội phần so với những rủi ro của tiêm chủng. Chính vì vậy mục đích của tiêm chủng là phải bảo vệ toàn thể cộng đồng, cho nên nếu tỷ lệ phản ứng sau tiêm nằm trong giới hạn của Tổ chức Y tế thế giới thì nhất thiết vẫn phải duy trì tiêm chủng để tránh dịch bệnh bùng phát gây nguy hiểm khôn lường cho toàn xã hội.

Phản ứng thường gặp sau khi tiêm chủng

Hầu hết, sau khi tiêm chủng sẽ có các có các dấu hiệu như sốt nhẹ và đau. Trong một số trường hợp có dấu hiệu tai biến nặng có thể đe dọa đến tính mạng như: khó thở, sốc phản vệ, hội chứng sốc nhiễm độc, sốt cao co giật, trẻ khóc kéo dài, tím tái, ngừng thở.

Phản ứng sau tiêm chủng: Xử trí thế nào cho đúng ảnh 2 

Sau tiêm chủng một số trẻ có biểu hiện sốt, đây là biểu hiện bình thường sau tiêm chủng

Theo thông tin trên báo VNE, tài liệu Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị các bệnh về dị ứng - miễn dịch lâm sàng do Bộ Y tế ban hành, tỷ lệ các phản ứng không mong muốn do văcxin dao động trong khoảng 4,8 đến 83 ca/100.000 liều văcxin. Trong đó, tỷ lệ các phản ứng dị ứng khoảng 1/50.000 đến 1/100.000 liều tiêm.

Nghiên cứu cho thấy văcxin và các thành phần tá dược đều có thể gây ra những tác dụng không mong muốn. Những văcxin có thành phần bao gồm trứng hoặc gelatine thì phản ứng dị ứng thường nặng và tần suất xuất hiện nhiều hơn. Tuy vậy, sốc phản vệ rất hiếm khi xảy ra, chỉ khoảng 1/1.000.000 liều dùng.

Các biểu hiện phản ứng phụ do văcxin rất đa dạng nhưng hầu hết khu trú tại chỗ tiêm, là hậu quả của quá trình viêm không đặc hiệu do các thành phần trong văcxin như muối nhôm. Hiện chưa có bằng chứng khẳng định gia tăng nguy dị ứng văcxin ở những người có cơ địa dị ứng (atop).

Các phản ứng nhẹ tại chỗ hoặc tình trạng sốt sau tiêm văcxin thường xảy ra và không có chống chỉ định tiêm những liều chủng ngừa sau. Tuy nhiên, những trường hợp phản ứng dị ứng toàn thân hoặc sốc phản vệ cần được thăm khám, khai thác tiền sử dị ứng, làm test da với văcxin và thành phần trong văcxin để có thể đưa ra chẩn đoán và quyết định điều trị đúng ở người bệnh có phản ứng tức thì với văcxin.

Xử trí phản ứng sau tiêm chủng thế nào cho đúng

Phản ứng sau tiêm chủng là điều không ai mong muốn, tuy nhiên khi có các biểu hiện phản ứng do tiêm chủng cần đưa người bệnh đến ngay cơ sở y tế gần nhất để xử trí kịp thời. Khi xảy ra phản ứng sau tiêm chủng với những biến chứng nặng Bộ Y tế hướng dẫn một số các biện pháp xử trí và điều trị như sau:

Phản ứng sau tiêm chủng: Xử trí thế nào cho đúng ảnh 3 

Khi bị phản ứng sau tiêm chủng trẻ thường xuất hiện mẩn ngứa, ban đỏ

Theo thông tin trên báo Sức khỏe và Đời sống: đối với sốc phản vệ, thường xuất hiện trong hoặc ngay sau khi tiêm chủng với các triệu chứng như kích thích, vật vã; mẩn ngứa, ban đỏ, mày đay, phù Quincke; mạch nhanh nhỏ khó bắt, huyết áp tụt có khi không đo được; khó thở (kiểu hen, thanh quản), nghẹt thở; đau quặn bụng, ỉa đái không tự chủ; đau đầu, chóng mặt, đôi khi hôn mê; choáng váng, vật vã, giãy giụa, co giật. Cần dừng ngay việc tiêm vắc-xin và tiến hành cấp cứu sốc phản vệ theo phác đồ của Bộ Y tế và chuyển bệnh nhân đến đơn vị hồi sức tích cực của bệnh viện gần nhất.

Phản ứng quá mẫn cấp tính: Thường xảy ra trong vòng 2 giờ sau khi tiêm chủng với 1 hay kết hợp nhiều triệu chứng như thở khò khè, ngắt quãng do co thắt khí phế quản và thanh quản, phù nề thanh quản; phát ban, phù nề ở mặt hoặc phù nề toàn thân, cần dùng các thuốc kháng histamin, phòng ngừa bội nhiễm, đảm bảo nhu cầu dịch và dinh dưỡng. Trường hợp phản ứng nặng cần cho thở ôxy và xử trí như sốc phản vệ.

Sốt cao (> 38,5oC) cần uống nhiều nước hoặc đảm bảo nhu cầu dịch và dinh dưỡng. Dùng thuốc hạ sốt hiệu quả và an toàn cho trẻ em như acetaminophen. Trong trường hợp sốt cao không đáp ứng với acetaminophen đơn thuần có thể phối hợp thêm ibuprofen sau 1 đến 2 giờ không hạ nhiệt với acetaminophen và không có chống chỉ định với ibuprofen. Có thể tiến hành lau mát hạ sốt với nước ấm hoặc nước thường và điều trị các biến chứng co giật nếu có.

Khóc thét không nguôi, dai dẳng trên 3 giờ kèm theo la hét. Thường dịu đi sau 1 ngày hoặc thời điểm đó có thể dùng thuốc giảm đau theo chỉ định.

Co giật: Thường là những con co giật toàn thân không kèm theo dấu hiệu và triệu chứng tại chỗ có thể có sốt hoặc không. Cần được điều trị hỗ trợ hô hấp như thông đường thở, hút đờm rãi, thở ôxy. Dùng thuốc chống co giật như diazepam và/hoặc thuốc chống co giật khác theo đúng phác đồ xử trí co giật.

Áp-xe: Tại chỗ tiêm sờ thấy mềm hoặc có dò dịch, có thể là áp-xe vô khuẩn hoặc nhiễm khuẩn. Điều trị bằng chích rạch và dẫn lưu, dùng kháng sinh nếu nguyên nhân do nhiễm khuẩn.

Nhiễm khuẩn huyết: Bệnh thường khởi phát cấp tính, có tính chất toàn thân, trầm trọng. Biến chứng thường gặp và nguy hiểm là sốc nhiễm trùng. Cần điều trị sốc nếu có theo phác đồ điều trị sốc, kháng sinh và điều trị các biến chứng.

Điều trị các phản ứng dị ứng sau tiêm văcxin

Nếu bệnh nhân bị phản ứng dị ứng tại chỗ thì chườm đá tại chỗ tiêm. Trường hợp bị đau nhiều, bác sĩ có thể chỉ định cho dùng paracetamol hoặc ibuprofen. Nếu có biểu hiện dị ứng, ngứa tại chỗ có thể sử dụng kháng histamine đường uống. Khi các triệu chứng thuyên giảm, cần theo dõi người bệnh ít nhất 30 phút tiếp theo.

Nếu bệnh nhân bị phản ứng phản vệ nhẹ với các biểu hiện thường gặp là mày đay và phù mạch (Quincke) thì dùng thuốc kháng histamine. Nếu triệu chứng nặng, toàn thân, bác sĩ có thể cân nhắc dùng thêm corticosteroid.