Nghệ thuật nắm thời gian của Đại tướng Võ Nguyên Giáp

ANTĐ - Có lần tôi hỏi Giáo sư Đặng Bích Hà, phu nhân Đại tướng Võ Nguyên Giáp, không biết Đại tướng có chọn ngày giờ nổ súng mở màn chiến dịch không? Bà trả lời ngay:  Không bao giờ anh Văn mê tín, thấy hội đủ điều kiện thì cho đánh thôi!

Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy tác chiến trong chiến dịch Điện Biên Phủ

“Không thắng hay bại là mình chưa đủ mạnh”

Mấy chục năm về trước, có lẽ chỉ bà con nông dân tính mùa vụ, thời tiết theo âm lịch, còn trong đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức, nhất là trong quân đội, mọi người chỉ tính theo dương lịch. Đêm 2-2-1954 tại Sở chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ, sau bộn bề công việc phải nghe báo cáo, phải giải quyết, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp ngả lưng xuống sàn, định chợp mắt để hôm sau còn có sức làm việc tiếp, chợt nhớ ra điều gì, ông lại ngồi dậy, gọi điện cho các chỉ huy xem có biết hôm nay là 29 Tết Quý Tỵ không, có lo được gì thêm cho bộ đội không? Khi được nghe báo cáo mỗi người được một ca nước trà nóng và một điếu thuốc lá, ông mới yên tâm ngả lưng thiếp đi. 

Hồi tưởng lịch sử kháng chiến chống Pháp, ta có tới 3 chiến dịch và một trận đánh lớn được Đại tướng kể lại như sau: Chiến dịch Trần Hưng Đạo ở Trung du (mở màn ngày 26-12-1950), “kết thúc không thuận lợi”; Chiến dịch Hoàng Hoa Thám, ở Đông Bắc (23-3-1951), “kết thúc để lại cho tôi một ấn tượng nặng nề”; Chiến dịch Quang Trung ở Hà Nam Ninh (27-5-1951), “tiêu hao giữa ta và địch là 1-1”. Một chiến dịch ông cho là “thất bại” là chiến dịch Lý Thường Kiệt ở Tây Bắc (25-9-1951). Còn một trận phải rút ra không đánh nữa là ở tập đoàn cứ điểm Nà Sản (Sơn La 1-12 -1952) “vì thương vong đến mức không thể chấp nhận được”. 

Không biết bây giờ có ai cho rằng tại ta chọn ngày, giờ xấu nên mới thế không? Còn Đại tướng thì chỉ thẳng ra: “Không thắng hay bại là mình chưa đủ mạnh, mình chọn cách đánh dở”.

Đánh trận Điện Biên Phủ có xem giờ đẹp?

Quay lại Chiến dịch Điện Biên Phủ, ngày nổ súng mới đầu được xác định là 25-1, nhưng cuối cùng, do những diễn biến càng ngày càng bất lợi cho ta nên phải thay đổi. Lúc đầu địch chỉ có 10 tiểu đoàn, sau tăng lên 13, cuối cùng là 19. Công sự ban đầu lúc chúng mới nhảy dù xuống chỉ là dã chiến, sau đó đã thành công sự kiên cố bằng xi măng cốt sắt. Về phía ta, tuy đã vượt được muôn vàn khó khăn, kéo pháo được qua đèo cao hiểm trở, nhưng trận địa pháo nằm tênh hênh trên sườn đồi trong những hầm dã chiến. Nếu nổ súng, chỉ một hai loạt đạn đầu, quan sát khói đầu nòng, máy bay địch sẽ bắn phá, ném bom, chưa kể địch phản pháo, không chỉ người mà cả pháo sẽ bị thương vong, không còn khả năng chi viện cho bộ binh nữa. Ấy là chưa kể chúng ta không có trận địa dự phòng để di chuyển pháo và tiếp tế đạn, chưa kể ngày giờ nổ súng địch đã biết chính xác. 

Chính vì thế, sau nhiều ngày cân nhắc, tính toán, đêm 25-1 ấy, Đại tướng đã đi đến một quyết định mà sau này ông coi đó là quyết định khó khăn nhất trong đời chỉ huy quân sự của mình: kéo pháo ra, trở về vị trí tập kết, chuẩn bị lại, có đủ điều kiện mới đánh. Tra lịch vạn niên thì ngày 25-1 là 21-12 âm lịch, còn ngày nổ súng mở màn chiến dịch sau đó một tháng rưỡi là 13-3, tức 9-2 âm lịch. Cả hai ngày đều là ngày lẻ, tháng 2 lại chỉ có 28 ngày.

Ấy là mới nói đến ngày. Thế còn giờ? Bây giờ đi đón dâu, động thổ nhà cửa, công trình, di quan, hạ huyệt ... không ai chọn lúc chiều muộn. Vậy mà tất cả những trận mở màn mọi chiến dịch, kể cả chiến dịch Điện Biên Phủ, giờ nổ súng dự kiến và giờ nổ súng thực tế đều vào lúc 17h. Mặc dù địch đã biết chính xác ngày giờ dự kiến nổ súng, vậy mà lần sau ta vẫn phát hỏa đúng giờ ấy. Thực tế là nổ súng vào 17h5 ngày 13-3-1954.

Đơn giản là, lúc ấy trời còn sáng rõ, nhờ thế, bằng mắt thường, qua ống nhòm ta mới quan sát được mục tiêu bắn phá để hiệu chỉnh pháo binh bắn cấp tập vào mục tiêu, dọn đường cho bộ binh sau đó tiến vào. Đến lúc xung kích tiến vào, áp sát mục tiêu thì trời đã tối, máy bay địch không hoạt động được nữa. Quân ta quen đánh đêm chính là vì lý do ấy.

(Còn nữa)