Ngân hàng quốc doanh nhận chuyển giao bắt buộc sẽ không "nới room" ngoại lên 49%

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN - Các ngân hàng thương mại có vốn Nhà nước khi nhận chuyển giao bắt buộc ngân hàng yếu kém sẽ không được “nới room” ngoại lên 49%.

Hai ngân hàng nhận chuyển giao sẽ được tăng room ngoại lên 49%

Trong Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 01/2014/NĐ-CP ngày 3/01/2014 của Chính phủ về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam công bố mới nhất, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) dự kiến sẽ cho phép các tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc được nâng room vốn ngoại lên 49%, không bao gồm các ngân hàng thương mại do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ.

Trước đó, trong dự thảo lần 1 được lấy ý kiến hồi tháng 12/2022, NHNN không quy định trường hợp loại trừ với các ngân hàng thương mại do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ.

NHNN cho biết, theo kế hoạch, có 4 ngân hàng thương mại (NHTM) cổ phần sẽ nhận chuyển giao bắt buộc đối với 4 ngân hàng yếu kém. Trong đó có 2 NHTM cổ phần nhận chuyển giao tại Phương án chuyển giao bắt buộc có đề xuất được nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại ngân hàng lên 49%.

Hai NHTM cổ phần nêu trên chiếm 3,13% tổng số NHTM cổ phần Việt Nam; 6,59% tổng tài sản của toàn hệ thống NHTM cổ phần Việt Nam; chiếm 5,26% thị phần huy động và 5,49% thị phần cho vay đối với thị trường 1 (các tổ chức kinh tế và dân cư) của toàn hệ thống NHTM cổ phần Việt Nam tại thời điểm 30/6/2022.

Qua số liệu nêu trên, việc chấp thuận cho các NHTM cổ phần nhận chuyển giao tăng vốn sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài vượt 30% vốn điều lệ và không vượt quá 49% vốn điều lệ của ngân hàng sẽ ảnh hưởng không quá lớn đối với toàn bộ hệ thống các NHTM cổ phần Việt Nam cũng như toàn bộ hệ thống ngân hàng.

Các ngân hàng quốc doanh khi nhận chuyển giao bắt buộc ngân hàng yếu kém sẽ không được nới room ngoại

Các ngân hàng quốc doanh khi nhận chuyển giao bắt buộc ngân hàng yếu kém sẽ không được nới room ngoại

Từ các lý do nêu trên, NHNN thấy rằng việc cho phép tổng mức sở hữu cổ phần tối đa của các nhà đầu tư nước ngoài tại các TCTD nhận chuyển giao từ 30% lên 49% sẽ góp phần, tạo điều kiện thực hiện thành công phương án chuyển giao bắt buộc, góp phần ổn định hệ thống tài chính ngân hàng, ổn định kinh tế, xã hội, không ảnh hưởng lớn đến an ninh tiền tệ ngân hàng.

Vì sao không nới room ngoại cho tất cả các ngân hàng?

Ngân hàng Nhà nước cho rằng, hiện nay, chỉ nên mở rộng và khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài, đầu tư vào các TCTD yếu kém và TCTD nhận chuyển giao chưa nên mở rộng ra tất cả các tổ chức tín dụng.

Lý do thứ nhất là, theo quy định trên thì trong trường hợp cần thiết Thủ tướng Chính phủ có quyền quyết định ít nhất là 4 NHTM (là các TCTD yếu kém) có tổng mức sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài tại NHTM vượt 30% vốn điều lệ.

Ngoài ra, có thể có 2 NHTM cổ phần nhận chuyển giao được điều chỉnh tăng tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài.

Như vậy, sẽ có ít nhất là 6 NHTM có thể tăng tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài vượt 30% vốn điều lệ, chiếm tương đương 17,14% số ngân hàng thương mại.

Ngoài ra, hiện nay, còn có 2 ngân hàng liên doanh, 9 ngân hàng 100% vốn nước ngoài và 51 chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Số liệu trên cho thấy, Việt Nam mở cửa lĩnh vực tiền tệ ngân hàng khá là sâu rộng, có sự hiện diện thương mại tương đối nhiều của tổ chức tín dụng nước ngoài tại thị trường Việt Nam.

Thứ hai, thời gian qua, nhiều ngân hàng 100% vốn nước ngoài đang tiếp tục mở rộng mạng lưới và tăng vốn điều lệ (ví dụ Standard Chartered năm 2021 tăng vốn điều lệ từ 4.200 tỷ đồng lên 6.900 tỷ đồng, Ngân hàng UOB Việt Nam tăng vốn điều lệ từ 3.000 tỷ đồng lên 5.000 tỷ đồng).

Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam cũng tăng quy mô vốn được cấp (ví dụ: NongHyup - chi nhánh Hà Nội tăng vốn từ 35 triệu USD lên 80 triệu USD, Bank of China - chi nhánh TP.HCM tăng vốn từ 80 triệu USD lên 100 triệu USD…).

Trong khi đó, hiện đã có tới có 27/31 NHTM cổ phần đã được niêm yết, đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán, do vậy, các nhà đầu tư nước ngoài (ngoại trừ nhà đầu tư chiến lược, nhà đầu tư lớn) dễ dàng rút vốn ra khỏi NHTM cổ phần của Việt Nam khi có biến động lớn về kinh tế trong nước hoặc trên thế giới, sẽ gây khó khăn trong công tác quản lý kinh tế và điều hành chính sách tiền tệ.

Đặc biệt trong tình hình kinh tế thế giới và kinh tế trong nước có nhiều biến động như hiện nay.

Thực tế, khoảng 5 năm trở lại đây, đã có hiện tượng một số ngân hàng nước ngoài (chủ yếu từ châu Âu) dần dần rút vốn đầu tư ra khỏi ngân hàng trong nước, chuyển nhượng cổ phần cho nhà đầu tư trong nước hoặc các ngân hàng châu Á từ Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản.

Việc nhà đầu tư nước ngoài (cổ đông lớn, nhà đầu tư chiến lược) thoái vốn hoặc chuyển các khoản đầu tư của họ cho cổ đông khác đồng nghĩa với việc ngân hàng có thể mất đi phần lợi ích từ nhóm khách hàng do nhà đầu tư nước ngoài mang lại (nhóm khách hàng có thể chuyển sang dịch vụ của những tổ chức khác có quan hệ với nhà đầu tư hoặc với TCTD do nhà đầu tư nước ngoài thành lập/tham gia góp vốn).

Thứ ba, theo cơ chế Ratchet tại Hiệp định CPTPP yêu cầu các nước thành viên không đảo ngược tiến trình tự do hóa, điều đó có nghĩa, khi Việt Nam điều chỉnh tăng tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài vượt giới hạn 30% vốn điều lệ của ngân hàng thương mại cổ phần, nếu cần thiết Việt Nam không thể điều chỉnh giảm trở lại.