Mảnh đời 58 mảnh đạn

ANTĐ - Người đàn bà ấy không chỉ bỏ lại một phần thân thể mình nơi chiến trường để góp phần đổi lấy ngày quê hương giải phóng. Chiến tranh đi qua, bà “mang” trong mình 58 mảnh đạn như một niệm khúc buồn của thời hoa lửa.

Trở lại thời bình, dù mang trong mình 58 mảnh đạn song bà Hiền luôn nổ lực

vượt khó khăn, giữ gìn phẩm chất bộ đội Cụ Hồ

Trở lại thời bình, bà đã gác lại những lo toan thường nhật của mình để cùng chồng đi tìm hài cốt của đồng đội. Bà là Trần Thị Hiền (59 tuổi, thôn Sơn Công, xã Hương Vân, huyện Hương Trà, tỉnh TT- Huế).

Cận kề cái chết

Trong căn nhà cấp 4 ở thôn Sơn Công, chiếc giường kê chổng chơ như gánh cùng nỗi đau của bà mỗi khi trái gió trở trời. Thấy khách, bà gượng dậy, rót chén trà bảo: “Mấy hôm nay trời Huế đổi gió mùa, mình mẩy ê ẩm không làm gì được. Từ ngày rời chiến trường về quê hương đến nay, nhờ sự động viên của chị em trong hội phụ nữ, hội cựu chiến binh nên phần nào vơi đi được nổi đau thể xác.” Hỏi chuyện xưa, nhắc đến quá khứ hào hùng, đôi mắt bà thu ánh nhìn từ khoảng sân mưa rơi, bỗng rực sáng lạ.

Bà kể, sinh ra ở quê hương Hương Trà, từ khi còn là cô bé mảnh khảnh, từng đêm nằm bên vòng tay mẹ, bà đã nghe tiếng bước chân rầm rập của các anh bộ đội hành quân xuyên rừng lên với Trường Sơn. Trong làng, có nhiều gia đình đào hầm nuôi dấu cán bộ. Năm 15 tuổi, cùng như bao lớp người trẻ nơi quê hương Hương Vân, bà rời gia đình làm o du kích tiếp tế lương thực cho bộ đội.

Đầu năm 1972, khi đóng quân ở miền Tây TT- Huế, gần địa phận huyện A Lưới, trong một lần đi bẻ ngô ở đồi Làng Tà cùng đồng đội của mình là chị Nguyễn Thị Nữ, quê ở Quảng Nam, để tích trữ lương thực cho bộ đội, bà đã bị thương khi máy bay Mỹ ném bom oanh tạc vùng đất đó. Giọng xúc động, bà nhớ lại: “Chiến tranh là chết chóc chú à. Lúc hai chị em đang ngồi vừa tách ngô, vừa nói chuyện, mới nghe tiếng vù vù của máy bay thì đã thấy đất bụi tung mịt mù, một cảm giác đau như cháy xém hết cả làn da, miệng ngậm vị nhám của cát và đất rồi không biết gì nữa. Khoảng đến chiều mình tỉnh lại, cố lết đến nơi chị Nữ đang nằm thì thấy chị ấy đã hy sinh…” Bà bỏ lửng câu nói, những giọt nước mắt khô khốc như được vắt ra từ thân thể tiều tụy vì đạn bom, lăn xuống gò má nhăn nheo. Lần ấy, bà Hiền bị thương nặng với 5 mảnh đạn găm vào chân.

Với nghị lực lớn, bà đã nuôi dạy con cái thành người, ngày đêm đi tìm thêm nhiều hài cốt liệt sỹ

Cuối năm 1972, vì lý do sức khỏe, bà được chuyển về làm việc ở huyện đội Hương Trà. Nhưng rồi, năm đó chiến tranh diễn ra dữ dội, thấy mình nhiều lần trúng đạn bom mà may mắn thoát chết, trong khi nhiều đồng đội phải vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường nên đến năm 1973, khi thấy đã đi lại được, bà quyết định trở lại với chiến trường.

Nhưng số phận đã xô đẩy, tưởng chừng như người phụ nữ này “có duyên” với đạn bom. Trong một lần gùi gạo cho đơn vị huyện đội Hương Trà, đến đồi Khe Trái, lúc đó khoảng 2h chiều, bà bị vướng phải mìn do địch gài sẵn. Một tiếng nổ chát chúa vang cả một góc rừng. Tấm thân bà như những chiếc lá rừng mỏng manh đã hứng chịu cả loạt mảnh từ trái bom bi oan nghiệt! Đến 6h sáng hôm sau, bà mới được đồng đội dùng gùi đưa ra khỏi vùng bị địch bắn và về đến huyện đội Hương Trà.

Tại đây, các bác sĩ quân y sau khi thăm khám đã lắc đầu bởi vết thương quá nặng. Huyện đội phó huyện đội Hương Trà thời gian đó là ông Phạm Ở đã mang 4m nilon đến và cắt cử người chuẩn bị đem đi mai táng. Như có một phép màu kỳ diệu, trong giây phút cận kề cái chết và sự sống, số phận đã mỉm cười với bà. Bà nhớ lại: “Sau khi mình qua khỏi nguy kịch, huyết áp đã ổn định, nhờ sự chăm sóc nhiệt thành của các bác sỹ quân y, mình được chuyển đi tuyến sau ra Quảng Bình để dưỡng thương.” Do thời gian đó không có điều kiện để phẫu thuật, qua hai lần bị thương, 58 mảnh đạn (trong đó có 3 mảnh nằm trong phổi) đã “ở lại” trong thân thể của bà vĩnh viễn.

Nghị lực phi thường

Trở lại thời bình, những vết thương của một thời khói lửa, hào hùng vẫn theo bà trong từng giấc ngủ, từng cơn đau oằn mình mỗi khi trời chướng gió! Năm 1975, bà lập gia đình với cựu chiến binh Bùi Bá Lung (60 tuổi), rồi trở lại với vùng đất Sơn Công lập nghiệp. Buổi đầu cuộc sống thật gian nan, quê hương sau ngày chiến tranh xóm làng tiêu điều, ruộng đồng xơ xác. Hai vợ chồng phải dắt díu nhau lên khu rừng Trò khai hoang trồng đậu, sắn và mót củi bán kiếm cơm đắp đổi qua ngày. Dù làm cật lực nhưng vẫn không đủ cho 8 miệng ăn trong gia đình, những đứa con của bà Hiền lần lượt nghỉ học, kiếm nghề phụ giúp cha mẹ. Bà nói như mình là người có lỗi: “Hồi đó gian khó quá, mần (làm) không đủ ăn chứ lấy mô (đâu) ra mà có tiền cho tụi nhỏ đi học. Mỗi lần từng đứa con nghỉ học tui lại khóc thương chúng nhưng cũng chẳng biết làm sao vì hai vợ chồng đều thương binh, mất sức lao động cả".

''Bản thân tôi cũng còn may mắn hơn nhiều đồng đội đã nằm xuống,

ngày nào còn sức khỏe, tui sẽ cùng chồng tìm thêm nhiều hài cốt liệt sỹ nữa''

Tuy không thể đưa những đứa con thân yêu của mình đến bến bờ của chữ nghĩa, nhưng bà đã dạy cho chúng nó nhiều thứ có khi còn hơn cả những dòng chữ sáo rỗng trên trang sách đó là lòng hiếu thảo, nghĩa tình, sự yêu thương đùm bọc giữa những người thân trong gia đình. Năm 1992, khi các con đã khôn lớn và có việc làm, gia đình bà trở lại định cư ở thôn Sơn Công, làm 5-7 sào ruộng đủ cho 2 thân già đắp đổi qua ngày. Anh Bùi Bá Hà (28 tuổi), con trai bà Hiền cho biết: “Tuy khó khăn nhưng mẹ luôn lo lắng chu toàn cho bọn em. Chỉ thương mẹ mang nhiều vết thương từ chiến tranh, cứ ra làm đồng là ngất xỉu, trái gió trở trời thì đau đến cháo cũng không nuốt nổi. Tính mẹ thế, vẫn vẫn lặng lẽ sống chứ không bao giờ gọi, nhờ vả ai.”

Thời gian khó ấy cũng qua đi như dấu vết chiến tranh rồi cũng bị cuốn khuất lấp sau những cơn mưa rừng xối xả rồi mất hút. Nhưng khi chiến tranh qua đi, nỗi đau thể xác của người cầm súng vẫn dai dẳng, còn mãi. Khi đã ổn định kinh tế, điều mà bà Hiền và ông Lung day dứt mãi là làm sao đi tìm lại hài cốt của đồng đội. Mỗi lần đến ngày thương binh liệt sỹ, ra thăm nghĩa trang, vẫn còn đâu đó những nấm mồ với những “dòng tên” thật giống nhau…Và đến những ngày đó là hình ảnh của đồng đội cứ theo về trong từng mảng ký ức của bà, thôi thúc từng thớ thịt.

Năm 2009, bà đã cùng chồng và người em trai lên đoạn sông Bồ chảy qua địa phận huyện Hương Trà- nơi riễn ra trận chiến năm xưa để tìm hài cốt của đồng đội. Sau ba ngày cật lực tìm kiếm, góp nhặt từng mảnh ký ức qua trí nhớ đã nhàu nát bởi một thời bom đạn, bà cùng chồng đã mang về 12 bộ hài cốt của các anh, chị, an táng tại nghĩa trang quê nhà. Đến nay, dù sức khỏe không cho phép nhưng bà vẫn sát cánh bên người chồng để đi tìm hài cốt đồng đội, đưa các anh về với đất mẹ. Bà tâm sự: “Hiện nay, ở các động Trăng, Lu, Khe Trái còn rất nhiều đồng đội của tui đã nằm xuống ở đó nhưng chưa đưa về được. Đó là điều tôi day dứt bấy lâu nay vẫn chưa thực hiện được. Ngày nào còn sức, tui sẽ không ngừng tìm kiếm hài cốt đồng đội. Tui cũng mang trong mình nổi đau của chiến tranh nhưng dẫu sao vẫn còn may mắn hơn rất nhiều đồng đội đã nằm xuống, chưa tìm về được với quê hương.”