Lời giải tham khảo môn Văn

(ANTĐ) - Mời bạn đọc xem lời giải gợi ý môn Văn khối C, D

Lời giải tham khảo môn Văn

(ANTĐ) - Mời bạn đọc xem lời giải gợi ý môn Văn khối C, D

Gợi ý giải đề thi môn Văn khối C

Phần chung cho tất cả thí sinh (5 điểm)

Câu I (2,0 điểm):

Anh/chị hãy nêu những nét chính về tình cảm nhân đạo và bút pháp nghệ thuật của Thạch Lam trong truyện ngắn Hai đứa trẻ.

Gợi ý:

1. Giới thiệu ngắn gọn về Thạch Lam và truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.

Thạch Lam là một nhà văn của nhóm Tự lực văn đoàn nhưng đã tạo được một “lối đi riêng” nhờ những trang văn thấm đẫm cảm xúc và phong cách truyện ngắn trữ tình độc đáo.

Truyện ngắn  “Hai đứa trẻ” được rút từ tập “Nắng trong vườn” là một tác phẩm tiêu biểu cho đặc sắc phong cách nghệ thuật của Thạch Lam.

2. Tình cảm nhân đạo.

Sự cảm thông và niềm xót thương với cuộc sống mòn mỏi, tù túng của những con người nơi phố huyện nghèo như: hai chị em Liên và An, mẹ con chị Tí, gia đình bác xẩm.

Khám phá những vẻ đẹp ẩn sâu trong tâm hồn hai đứa trẻ dù cho phải sống trong tình trạng mòn mỏi và tù túng: niềm thương cảm, sự xúc động thuần khiết, đôn hậu với lũ trẻ nhà nghèo; tâm hồn trong trẻo (ngắm bầu trời đầy sao với những liên tưởng thơ trẻ), tình yêu quê hương (cảm nhận “mùi riêng của đất”, “mùi của quê hương”). Tất cả toát lên vẻ đẹp của sự tinh tế và nhạy cảm.

Nâng niu những khát vọng và ước mơ của con người.

3. Bút pháp nghệ thuật.

Truyện không có cốt truyện: toàn bộ câu chuyện xoay quanh diễn biến tâm trạng của Liên và An.

Giọng văn: hồn hậu, điềm đạm và trữ tình.

Ngôn ngữ: tinh tế, giàu cảm xúc.

Bút pháp: lãng mạn kết hợp với hiện thực.

Bao trùm là phong cách văn chương nhẹ nhàng, trong sáng, giản dị mà thâm trầm, sâu sắc gợi trong lòng người đọc những ám ảnh khôn khuây về hiện thực và những cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp của nhân vật.

Câu II (3,0 điểm):

Trong thư gửi thầy hiệu trưởng của con trai mình, Tổng thống Mĩ A. Lin-côn (1809 – 1865) viết: “xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự hơn gian lận khi thi.” (Theo Ngữ văn 10, Tập hai, NXB Giáo dục, 2006, tr. 135).

Từ ý kiến trên, anh/chị hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của mình về đức tính trung thực trong khi thi và trong cuộc sống.

Gợi ý:

1. Thực trạng:

Trong thi cử, hiện tượng gian lận ngày càng gia tăng với nhiều biểu hiện phức tạp đã và đang trở thành vấn đề nhức nhối.

Trong cuộc sống, sự không trung thực, gian dối cũng không phải hiếm hoi, xảy ra ở phạm vi từ gia đình cho tới toàn bộ xã hội.

2. Sự cần thiết của việc tu rèn đức tính trung thực

Trung thực là thẳng thắn, thành thực, sống đúng với bản chất con người, năng lực, trình độ của mình; với sự thực và không gian dối.

Trung thực trong khi thi sẽ tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, giúp học sinh phát huy được năng lực, thúc đẩy sự tiến bộ trong giáo dục.

Trung thực là một đức tính nền tảng của con người giúp bản thân, gia đình, xã hội phát triển.

3. Biện pháp:

Phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội để tu rèn đức tính trung thực cho học sinh.

Ngăn chặn hiện tượng không trung thực trong giáo dục và cuộc sống.

Nêu gương cho thế hệ những tấm gương về trung thực.

4. Liên hệ: Liên hệ với quá trình tu dưỡng của bản thân.

PHẦN RIÊNG (5,0 điểm)

Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu (câu III.a hoặc III.b)

Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm).

Cảm nhận của anh / chị về những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt – Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu).

Gợi ý:

1. Giới thiệu ngắn gọn về hai tác giả, hai tác phẩm, hai nhân vật.

- Kim Lân là nhà văn viết nhiều và viết khá hay về đời sống nông thôn cũng như những người nông dân hiền lành chất phác. Viết về cuộc sống, số phận, cảnh ngộ của những con người trong những năm xảy ra nạn đói năm Ất Dậu, “Vợ nhặt” là một tác phẩm tiêu biểu cho những khám phá của nhà văn về vẻ đẹp của người nông dân mà nổi bật là hình ảnh người vợ nhặt với khát vọng sống mãnh liệt.

- Nguyễn Minh Châu là một trong những người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới nền văn học Việt Nam sau năm 1975. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được kể lại từ điểm nhìn trần thuật của người nghệ sĩ mang tên Phùng – một nghệ sĩ trên hành trình khai phá nghệ thuật đồng thời tác phẩm cũng góp phần thể hiện những khám phá mới mẻ của nhà văn về hiện thực và về con người. Một thành công nổi bật của tác phẩm là những phát hiện về vẻ đẹp của người đàn bà làng chài.

2. Cảm nhận về vẻ đẹp của hai nhân vật.

a. Người vợ nhặt

Xuất hiện trong bối cảnh ngày đói quay quắt, ý chí bám lấy sự sống vấn rất mạnh mẽ trong nhân vật (bỏ qua ý thức về danh dự, chấp nhận theo không Tràng).

Khi trở thành vợ của Tràng, ở chị không còn vẻ “chao chát”, “chỏng lỏn”  mà thay vào đó là sự “hiền hậu đúng mực”, sự “ý tứ” với hành động “ngồi mớm ở mép giường”, “điềm nhiên và vào miệng”, “miếng cám nghẹn bứ, đắng chát”, cách đối xử chân tình với người chồng mới, ý thức tu sửa và dọn dẹp mái ấm gia đình.

Nghệ thuật miêu tả nhân vật: đặt nhân  vật trong tình huống “nhặt được vợ” vừa lạ vừa tội nghiệp, cùng với khả năng phân tích tâm lí sắc sảo, ngòi bút Kim Lân đã đi sâu khơi tìm đằng sau hiện thực khốn quẫn là vẻ đẹp tâm hồn của con người.

b. Người đàn bà làng chài.

Đối lập với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch là vẻ đẹp tâm hồn trong trẻo và cao khiết. Mọi sự cam chịu đến nhẫn nhục của nhân vật đều xuất phát từ tình yêu thương con tha thiết, từ trái tim hồn hậu, vị tha của một người mẹ.

Chị cũng là một người phụ nữ giàu đức hi sinh. Đặc điểm này cũng xuất phát từ tình mẫu tử, lòng yêu con tha thiết.

Không những thế, người đàn bà tưởng như “khép nép”, “sợ sệt” lại là một người thấu hiểu lẽ đời, tình người. Trong khi Phùng và Điểu kết tội gã đàn ông là kẻ độc ác nhất thế gian thì chị lại lí giải những trận đòn kia bằng nỗi khổ vật chất đè nặng lên vai người đàn ông. Qua câu chuyện đời tự kể của chị, Phùng và Điểu mới dần cảm nhận được lẽ đời và nhân tình thế thái một cách chân thực.

Sử dụng biện pháp đối lập (giữa hình thức và tâm hồn), đặt nhân vật trong tình huống nhận thức độc đáo, Nguyễn Minh Châu giúp người đọc khám phá “… ẩn giấu ” trong “bể sâu tâm hồn” người đàn bà hàng chài.

3. So sánh:

a.  Điểm tương đồng:

Viết về hai người đàn bà trong hai bối cảnh khác nhau nhưng các nhà văn đều dồn tâm sức khai phá vẻ đẹp tiềm ẩn, khó thấy, khuất lấp của người phụ nữ bên cạnh số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng.

Người vợ nhặt hay người đàn bà hàng chài đều là những nhân vật không tên tuổi, trở thành những khái quát nghệ thuật đặc sắc. Họ mang những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.

Khám phá vẻ đẹp của người phụ nữ, cả hai nhà văn đều thể hiện niềm tin vào phẩm chất của con người dù trong hoàn cảnh khốn cùng nhất.

b. Điểm khác biệt:

Đặt nhân vật trong bối cảnh nạn đói nên tâm điểm nghệ thuật của Kim Lân là khát vọng sống mãnh liệt, là những căn tích tốt đẹp bây lâu bị cái đói làm cho chìm khuất. Nguyễn Minh Châu lại xây dựng hình tượng người đàn bà trong bối cảnh xã hội sau năm  1975, khi chiến tranh đã đi qua nhưng cái nghèo, cái lạc hậu vẫn chưa hết, vì vậy nhân vật của ông được khám phá ở vẻ đẹp của nhận thức của sự thấu trải lẽ đời, tình người.

Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm).

Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ sau:

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,

Một người chín nhớ mười mong một người.

Gió mưa là bệnh của của giời,

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

(Tương tư -  Nguyễn Bính, Ngữ văn 11 Nâng cao, Tập hai, NXB Giáo dục, 2007, tr. 55)

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

(Việt Bắc – Tố Hữu, Ngữ văn 12 Nâng cao,

Tập một, NXB Giáo dục, 2008 , tr. 84)

Gợi ý:

1. Giới thiệu chung về hai tác giả, hai tác phẩm, hai đoạn trích.

- Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới. Thơ ông mang vẻ đẹp “chân quê” với những mối duyên quê, tình quê hồn hậu, thắm thiết và “ Tương tư” rút từ tập “Lỡ bước sang ngang” là bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Bính. Bài thơ viết về nỗi nhớ tình yêu với những cung bậc sắc thái tinh tế. Trong đó, đoạn thơ được trích là “khúc dạo đầu” bâng khuâng mà tha thiết.

- Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông phản ánh sâu sắc các vấn đề chính trị, đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn, đi vào lòng người bởi giọng điệu tâm tình ngọt ngào sâu lắng. Viết về buổi chia ta đầy lưu luyến giữa quân và dân, nhân sự kiện tháng 10 – 1954 – Trung ương Đảng và chính phủ rời Chiến khu Việt Bắc về Hà Nội, “Việt Bắc” là một trong những kết tinh nghệ thuật đặc sắc của nhà thơ xứ Huế. Đoạn thơ được trích là một khúc trong dòng chảy nhớ thương của “ta” – người kháng chiến.

2. Cảm nhận về hai đoạn thơ.

a. Đoạn trích “Tương tư” – Nguyễn Bính.

- “Tương tư” là nhớ nhau, thường được hiểu là nỗi nhớ đơn phương đầy xao xuyến và phong phú với rất nhiều sắc thái, cung bậc khác nhau. Đoạn trích nằm ở vị trí đầu của bài thơ và mở ra mạch cảm xúc chủ đạo của toàn bộ bài thơ “Tương tư”.

Hạt nhân cảm xúc của đoạn trích là “nhớ”, nỗi nhớ dằng dặc, triền miên, đằng đẵng như hai miền không gian, thao thức “chín nhớ mười mong”. Không chỉ giản đơn là những nhớ nhung, cảm xúc bâng khuâng, nỗi nhớ còn được “trầm trọng hóa” thành một thứ “bệnh của tôi” để so sánh với chuyện gió mưa là “bệnh của giời”.

- Mượn cách nói ca dao với những địa danh phiếm định “Thôn Đoài”, “Thôn Đông” cùng với các thành ngữ dân gian như “chín nhớ mười mong”, cách nói đậm chất thôn quê “giời”, Nguyễn Bính đã khéo léo kéo gần nỗi tương tư về với những mối tình trong ca dao truyền thống giản dị mà kín đáo của người Việt. Thế đặt sóng đôi “bệnh của giời” với “bệnh của tôi” là một cách nói ngông “đậm chất” Nguyễn Bính, bởi thế mạch cảm xúc trong đoạn thơ vừa giản dị lại vừa trong sáng mà hồn hậu, thân thương.

b. Đoạn hai: trích “Việt Bắc” của Tố Hữu

- Cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ cũng là nỗi nhớ. Nỗi nhớ đồng bào Việt Bắc – vốn là một tình cảm lớn lao được giản dị hóa thành nỗi “nhớ người yêu” – một tình cảm riêng tư, thầm kín. Hình ảnh thiên nhiên “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” hài hòa với hình ảnh con người “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” trong “bản khói cùng sương”vừa cụ thể, gần gũi mà rưng rưng bao nỗi nhớ thương tha thiết trong lòng người ra đi. Nó gắn với những kỉ niệm quân – dân cá nước trong những năm kháng chiến chống Pháp.

- Điệp từ “nhớ” đặt ở hai cặp câu như một nốt nhấn cảm xúc, diễn tả nỗi nhớ nhung thường trực, tha thiết như từng lớp sóng dềnh lên. Thể thơ lục bát truyền thống kết hợp với giọng thơ trữ tình ngọt ngào có tác dụng làm cho tình cảm quân – dân trở nên giản dị mà gắn bó sâu nặng.

3. So sánh hai đoạn thơ

- Điểm tương đồng giữa hai đoạn thơ:

+ Đều có mạch cảm xúc chủ đạo là nỗi nhớ.

+ Vẻ đẹp: đều mang âm hưởng dân gian của thể thơ lục bát và giọng điệu thơ trữ tình ngọt ngào.

- Điểm khác biệt:

+ Đoạn trích “Tương tư” viết về nỗi nhớ trong tình yêu đôi lứa, còn đoạn trích “Việt Bắc” lại mượn nỗi nhớ trong tình yêu để diễn tả nỗi nhớ của người chiến sĩ với đồng bào Việt Bắc.

+ Hình ảnh trong thơ Nguyễn Bính không cụ thể mà nghiêng về biểu tượng, có tác dụng khái quát các cung bậc cảm xúc trong tình yêu – nỗi nhớ. Hình ảnh trong thơ Tố Hữu với những nét đặc trưng của đất và con người nơi vùng cao Việt Bắc đã hằn in trong tâm hồn người kháng chiến vừa gần gũi, thân thuộc vừa mới mẻ, hiện đại và in đậm dấu ấn phong cách thơ tình Nguyễn Bính.

Gợi ý giải đề thi môn Văn khối D

Phần chung cho tất cả thí sinh (5 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm): Một trong những đặc điểm cơ bản của nền văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 là chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Anh/ chị hãy nêu những nét chính của đặc điểm trên.

-         Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn là đặc điểm nổi bật của văn học VN giai đoạn 1945- 1975.

-         Khuynh hướng sử thi được thể hiện ở những phương diện sau:

+ Đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân tộc

+ Nhân vật chính thường là những con người đại diện cho tinh hoa và khí phách, phẩm chất và ý chí của dân tộc, tiêu biểu cho lý tưởng của cộng đồng hơn là lợi ích, khát vọng cá nhân

+ Con người chủ yếu được khám phá ở bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, ở lẽ sống lớn và tình cảm lớn

+ Lời văn sử thi cũng thường mang giọng điệu ngợi ca, trang trọng và đẹp một cách tráng lệ hào hùng

- Cảm hứng lãng mạn là cảm hứng khẳng định cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc và hướng tới lí tưởng. Cảm hứng lãng mạn trong văn học từ 1945- 1975 chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lý tưởng của cuộc sống mới và vẻ đẹp của con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

Cảm hứng lãng mạn đã nâng đỡ con người Việt Nam có thể vượt lên mọi thử thách, trong máu lửa của chiến tranh đã hướng tới ngày chiến thắng, trong gian khổ cơ cực đã nghĩ tới ngày ấm no hạnh phúc. Cảm hứng lãng mạn trở thành cảm hứng chủ đạo không chỉ trong thơ mà còn trong nhiều thể loại văn học khác.

Khuynh hướng sử thi kết hợp với cảm hứng lãng mạn làm cho văn học giai đoạn này thấm nhuần tinh thần lạc quan, đồng thời đáp ứng được yêu cầu phản ánh hiện thực đời sống trong quá trình vận động và phát triển cách mạng. Tất cả những yếu tố trên hoà hợp với nhau, tạo nên đặc điểm cơ bản của văn học VN từ 1945- 1975 về khuynh hướng thẩm mĩ.

Câu 2 (3,0 điểm): Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến sau: Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì chắc chắn sẽ còn đánh mất thêm nhiều thứ quý giá khác nữa. (Theo sách Dám thành công - Nhiều tác giả, NXB Trẻ, 2008, tr.90).

-         Giới thiệu được vấn đề nghị luận: Ý nghĩa của niềm tin vào chính bản thân mình trong cuộc sống của mỗi con người

-         Giải thích khái niệm niềm tin vào bản thân: Đó là ý thức về năng lực, phẩm chất, giá trị của mình trong cuộc sống, biết đánh giá được vị trí, vai trò của mình trong các mối quan hệ của cuộc sống…

-         Vì sao đánh mất niềm tin vào bản thân sẽ đánh mất nhiều thứ quý giá khác:

+ Mình là người hiểu rõ mình nhất, đánh mất niềm tin vào bản thân sẽ trở thành người không có ý chí, không có nghị lực, không có quyết tâm, không biết mình là ai, sống để làm gì, vì thế, mọi điều khác như tiền bạc, công danh, sẽ trở thành vô nghĩa…

+ Không có niềm tin vào bản thân sẽ không thể có cuộc sống độc lập, dễ bỏ qua các cơ hội trong cuộc sống, dễ đổ vỡ, sa ngã, đánh mất chính mình…

-         Việc đánh mất niềm tin vào bản thân đang là một thực tế nhức nhối trong cuộc sống hiện đại của một bộ phận giới trẻ:

+ Nhiều bạn trẻ vì sống quá đầy đủ, được bao bọc từ nhỏ nên khi phải đối diện với thử thách cuộc sống thì không thể tự sống bằng chính khả năng của mình, không đủ bản lĩnh sống, dẫn đến phải gục ngã, đầu hàng trước cuộc sống.

+ Trong thời đại hội nhập quốc tế, một bộ phận giới trẻ khác không trau dồi, rèn luyện nên không đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội dẫn đến tâm lý thua kém, tự ti, không xác định được phương hướng của cuộc đời, dễ bị người khác lừa gạt, lôi kéo -> hình thành một bộ phận thanh niên có tính cách bạc nhược, ăn bám, ỷ lại thậm chí là hư hỏng.

-         Phải phân biệt giữa tự tin với tự phụ: Tin vào bản thân, khẳng định giá trị của mình không có nghĩa là tự phụ, huyênh hoang, kiêu ngạo. Đánh giá được vị trí của mình trong cuộc sống không có nghĩa là coi thường người khác. Niềm tin vào bản thân càng không có nghĩa là bằng mọi cách để đạt được những điều mình muốn bất chấp cương thường đạo lý, bất chấp lẽ phải.

-         Phải làm gì để xây dựng niềm tin vào bản thân:

+ Đối với mỗi cá nhân phải không ngừng học tập, trau dồi, rèn luyện về kiến thức và đạo đức, không ngừng giao lưu học hỏi. Sớm hình thành lý tưởng sống và dám đấu tranh để thực hiện lý tưởng đó.

+ Đối với các cơ quan quản lý xã hội: Xây dựng và phát huy lối học sáng tạo, học đi đôi với hành, học kết hợp với ứng dụng; giáo dục ý thức cá nhân và hình thành tính tự tin, giàu tự trọng cho thế hệ học sinh, sinh viên; động viên, trân trọng, biểu dương những cá nhân dám nghĩ dám làm, có những đóng góp tích cực cho xã hội.

-         Liên hệ bản thân.

PHẦN RIÊNG (5,0 điểm)

Câu II.a Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm): Phân tích hình ảnh thiên nhiên và cái tôi trữ tình trong đoạn thơ sau:

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất;

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì;

Này cây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si;

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,

Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa;

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

(Vội vàng - Xuân Diệu, Ngữ văn 11, Tập hai, NXB Giáo dục, 2008, tr.22)

- Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ Mới, là hồn thơ dạt dào nhất ở chốn nước non lặng lẽ. Phong cách nghệ thuật và cái tôi trữ tình của Xuân Diệu đã được thể hiện rõ nét trong “Vội vàng”, bài thơ được coi là “bản tuyên ngôn sôi nổi của quan niệm nhân sinh mới mẻ: niềm khát sống, khát yêu đến cuồng nhiệt” (Nguyễn Hoành Khung).

- Xuân Diệu với con mắt xanh non, con mắt biếc rờn, con mắt phát hiện đã nhìn ngắm thế giới theo cách của riêng mình và khám phá ra cả một bữa tiệc trần gian trong những câu thơ mở đầu bài thơ:

+ Vạn vật vốn quen thuộc hiện lên trong thơ Xuân Diệu với một sức sống căng tràn, khoẻ khoắn, đầy xuân sắc và tình tứ, lấp lánh và kỳ diệu (tháng mật, xanh rì, cành tơ, khúc tình si…)

+ Vạn vật có đôi có cặp, hoà hợp say sưa ngây ngất trong mảnh vườn tình ái.

+ Thiện nhiên dạt dào, lôi cuốn không ngừng (điệp từ “này đây”) và mang hơi thở, sức sống cuả con người, cụ thể là mang vẻ thanh tân của người con gái đẹp. Đây là một cách tân táo bạo so với thơ ca trung đại bởi thơ trung đại bao giờ cũng lấy thiên nhiên làm chuẩn mực (tháng giêng ngon như một cặp môi gần)

- Xuân Diệu cũng dõng dạc và say mê bày tỏ một cái tôi trữ tình trong đoạn thơ đầu:

+ Cái tôi trữ tình là đóng góp lớn nhất của các nhà thơ mới cho nền thơ ca dân tộc, nói như Hoài Thanh đã hình thành một thời đại thi ca “đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi”… Trong thời đại ấy, Xuân Diệu là tiếng thơ thể hiện đầy đủ nhất cho ý thức cá nhân của cái tôi thơ mới, đồng thời mang đậm bản sắc riêng.

+ Trước hết, nó hiện ra trong hình tượng của một cái tôi tích cực mãnh liệt đầy khát khao giao cảm với cuộc đời. Vì thế mới có ước muốn táo bạo, cuồng vĩ, “tắt nắng” “buộc gió” và một giọng điệu thơ mê say, đắm đuối như muốn bộc bạch với mọi người, với cuộc đời niềm ngây ngất trước cảnh sắc trần gian đang bày ra trước mắt.

+ Đồng thời, Xuân Diệu đã thể hiện nỗi ám ảnh về thời gian trôi nhanh, tuổi trẻ qua mau. Người xưa coi thời gian là tuần hoàn, chu kỳ, tuần tự, còn Xuân Diệu cảm nhận thời gian tuyến tính, một đi không trở lại. Điều đó dẫn tới lối ứng xử vội vàng, cuống quít, tiếc thời gian, sợ mất mát, đang dẫm chân trên mảnh vườn tình ái đã lo lắng nhìn thấy một hoang mạc cô liêu; tiếc xuân ngay ở giữa độ xuân thì (phân tích “tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”)…

- Với một hồn thơ yêu đời yêu sống như vậy, “Vội vàng” cũng như cả sự nghiệp thơ ca của Xuân Diệu đã thổi vào phong trào thơ mới một luồng gió nồng nàn sôi sục, ít có trong thơ ca truyền thống.

Câu III.b. Chương trình Nâng cao (5,0 điểm): Phân tích tình huống truyện trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.

1. Giới thiệu chung:

Nguyễn Minh Châu là nhà văn giàu tâm huyết, luôn trăn trở về một nền văn học xứng đáng với tầm vóc dân tộc và với sự kì vọng của nhân dân

- Từ cảm hứng sử thi lãng mạn, huyền ảo đã từng tạo nên vẻ đẹp rực rỡ trong các tác phẩm thời kì chiến tranh, cảm hứng của ông dần dần chuyển sang tính chất triết luận về những giá trị nhân bản đời thường, khám phá ý nghĩa bản chất con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Hai tập truyện ngắn “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (1983) và “Bến quê” (1985) đã đưa Nguyễn Minh Châu lên vị trí “Người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) của văn học nước ta từ sau năm 1975.

- Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được in lần đầu tiên trong tập “ Bến quê “, sau được tác giả lấy làm tên chung cho cả tuyển tập truyện ngắn của mình, in năm 1987. Trong thiên truyện ngắn này, Nguyễn Minh Châu đã tạo dựng được một tình hưống truyện vô cùng đặc sắc.

2. Phân tích tình huống truyện

a -Định nghĩa tình huống truyện: Là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất.

b- Tình huống truyện trong “Chiếc thuyền ngoài xa” được xây dựng qua việc phát hiện ra những nghịch lí của Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh săn tìm cái đẹp ở ngoài bãi biển và ở toà án huyện

- Ở ngoài bãi biển

+ Nghệ sĩ Phùng đã phát hiện ra một cảnh đẹp trời cho trên một vẻ đẹp mờ sương, mặt biển mà cả đời bấm máy anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần: hình ảnh chiếc thuyền lướt vó nhạt nhoà trong làn sương mù màu trắng buổi bình minh… Phát hiện ấy khiến người nghệ sĩ cảm thấy sung sướng hạnh phúc, tưởng tâm hồn mình được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi, bắt gặp các tận Thiện, tận Mĩ.

+ Nhưng ngay sau đó, người nghệ sĩ lại phát hiện ra một sự thực trớ trêu và đầy nghịch lí như trò đùa quái ác của cuộc sống. Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí mệt mỏi và cam chịu, một lão đàn ông thô kệch dữ dằn độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách giải toả những ấm ức khổ đau. Phùng cay đắng nhận thấy: hoá ra đằng sau cái vẻ đẹp thơ mộng của “chiếc thuyền ngoài xa” trên biển sớm mờ sương lại là một sự thực tàn nhẫn của bi kịch gia đình. Đằng sau cái vẻ đẹp ấy mới là sự  thực của cuộc đời. Cái vẻ đẹp bên ngoài ấy nhiều khi thường đánh lừa ta như vậy.

- Trong toà án huyện là nghịch lí: người đàn bà hang chài van xin để toà cho chị được sống cùng người chồng vũ phu. Câu chuyện về cuộc đời chị đã giúp cho nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu “ngộ” ra được những chân lí sâu sắc, éo le của cuộc đời.

c-Ý nghĩa tình huống truyện:

- Giúp nhà văn gửi gắm những thông điệp tư tưởng và nghệ thuật: cái bên ngoài chưa hẳn là bản chất thật bên trong, nhiều khi còn đối lập với phẩm chất bên trong, không phải bao giờ cái Đẹp cũng thống nhất với cái Thiện, vì thế, cần phải có cái nhìn đa chiều sâu sắc, cảm thông với cuộc sống và con người. Thể hiện tuyên ngôn nghệ thuật về trách nhiệm người nghệ sĩ: Không nên tách rời nghệ thuật với cuộc đời, cần phải rút ngắn khoảng cách giữa cuộc đời và nghệ thuật; nghệ sĩ không được nhìn cuộc đời bằng con mắt đơn giản, dễ dãi, phải có tấm lòng, có can đảm, và biết trăn trở về con người.

- Thể hiện một cách rõ nét nhất khả năng ứng xử, phẩm chất, tính cách của các nhân vật:

* Người đàn bà:

+ Chịu nhiều thua thiệt, éo le của số phận, cuộc đời chất chồng những cay đắng khổ đau: vất vả trong công cuộc mưu sinh, thường xuyên bị hành hạ về thân xác, đau khổ dằn vặt về tinh thần

+ Nhưng ở chị vẫn ngời lên chất ngọc lấm láp từ cuộc sống còn nhiều vất vả đắng cay: nhẫn nhịn, chịu đựng hi sinh vì con, là người đàn bà từng trải sâu sắc, thấu hiểu các lẽ đời, vị tha, nhân hậu, bao dung, biết chắt chiu từng niềm vui nho nhỏ để làm nên ý nghĩa cuộc đời.

* Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu

+ Là những người chiến sĩ đã từng tham gia chiến đấu vì sự  sống của dân tộc, trở về với cuộc sống đời thường, vẫn say mê khám phá cái đẹp, đấu tranh với cái ác.

+ Hiện thực trớ trêu, đầy nghịch lí của cuộc đời đã giúp cho họ nhận thức được những chân lí, những lẽ đời sâu sắc.

-         Tình huống truyện góp phần làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm

+ Giá trị hiện thực: Cuộc sống đói nghèo lạc hậu tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hi sinh gian khổ nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người còn đầy cam go, lâu dài, cần có sự quan tâm của cách mạng, của cộng đồng

+ Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ cảm thông của tác giả với những số phận đau khổ tủi nhục của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu tranh với cái xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động.

Nhóm giáo viên môn Văn trường THPT Chu Văn An - Hà Nội