Cần gọi đúng tên xuất xứ hàng Việt, lật mặt hàng ngoại đột lốt "Made in Vietnam"

ANTD.VN - Tài liệu tổng kết 10 năm thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” diễn ra hồi tháng 6-2019 đã đưa ra những con số biết nói về sức tiêu thụ của hàng Việt tại ngay thị trường nội địa. Báo cáo của Ban chỉ đạo cuộc vận động cho biết, tỷ lệ hàng Việt tại các hệ thống siêu thị trong nước như: Co.opmart, Satra, Vissan, Vinmart… rất cao, trung bình trên 90%.

Cần gọi đúng tên xuất xứ hàng Việt, lật mặt hàng ngoại đột lốt "Made in Vietnam" ảnh 1

Sản phẩm may mặc xuất xứ Việt Nam đủ sức chinh phục khách hàng khó tính

Không thể để niềm tin bị lợi dụng

Tương tự, tại các “siêu thị ngoại” đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam như: BigC, Aeon, Megamarket, tỷ lệ này cũng rất cao. Tại các chợ truyền thống, nơi bị “định kiến” là nhiều hàng giá rẻ, mập mờ nguồn gốc xuất xứ, tỷ lệ hàng Việt cũng chiếm trên 60%. Thống kê này cho thấy, trong 10 năm qua, hàng Việt đã chiếm thế áp đảo tại ngay sân nhà. 

Tuy vậy, những số liệu trên vẫn có thể chưa phản ánh hết vị thế, sức lan tỏa, ảnh hưởng của hàng Việt trên thị trường nội địa mà sâu xa hơn, tâm lý chuộng hàng sản xuất trong nước đã ăn sâu vào một bộ phận không nhỏ người tiêu dùng. Bỏ qua một bộ phận người dân có thu nhập cao, thích hàng ngoại, thì đại đa số người dân có thu nhập từ khá trở xuống chắc chắn đã từng nhiều lần lựa chọn hàng Việt thay vì hàng Trung Quốc giá rẻ, chất lượng phập phù, hoặc hàng nhập ngoại giá quá cao. Một số ngành hàng “made in Vietnam” được người dân tin tưởng lựa chọn là: điện máy, đồ gia dụng, thời trang may mặc, giày dép, túi xách và cả thực phẩm…

Chị Vũ Thùy Linh (Xa La - Hà Đông, kinh doanh hàng hóa online) cho hay: “Tôi kinh doanh nhiều mặt hàng, nhưng cứ sản phẩm nào là hàng Việt xuất dư hay hàng do Việt Nam sản xuất thì bán rất chạy. Trong khi hàng nhập từ nước khác về giá rẻ khách lại thắc mắc, hỏi thông tin sản phẩm nhiều hơn. Nói chung, hàng Việt vẫn được khách hàng tin tưởng”.

Nhưng vấn đề ở chỗ, niềm tin của người tiêu dùng vào hàng trong nước đã bị lợi dụng. Không chỉ vụ việc gần đây Asanzo bị nghi bán tivi Trung Quốc gắn tem “made in  Vietnam”, mà trước đó Khaisilk cũng mập mờ về thương hiệu. Chưa kể, từ cách đây hàng chục năm, các cửa hàng quần áo thời trang “made in Vietnam” đã mọc lên như nấm sau mưa mà sản phẩm ở đó khó phân biệt được là hàng Việt hay giả Việt. 

Trả lời câu hỏi vì sao nhiều mặt hàng “made in Vietnam” vẫn có thêm “quốc tịch” khác, một chuyên gia kinh tế cho hay: “Tình trạng “loạn” hàng Việt hiện nay xuất phát không chỉ từ nguyên nhân chính các doanh nghiệp lạm dụng lòng tin của người tiêu dùng vào hàng nội địa, mà ở tầm vĩ mô chúng ta đang thiếu căn cứ để xác định thế nào là hàng sản xuất tại Việt Nam. Đây là lý do khiến người tiêu dùng rất dễ bị nhầm lẫn trong khi các doanh nghiệp lại cố tìm cách để phù phép nguồn gốc sản phẩm của họ”.

Xuất xứ hàng hóa thể hiện thương hiệu quốc gia

Nhật Bản có Sony, Canon; Hàn Quốc có Samsung, Huyndai; Việt Nam thật sự có gì? Trả lời cho câu hỏi này thật khó! Có thời điểm, tranh luận xung quanh câu chuyện “Samsung có phải là hàng Việt Nam không” diễn ra gay gắt, nhưng vẫn không đi đến kết luận thống nhất nào. Nhiều ý kiến cho rằng, khái niệm “made in Vietnam” không đồng nghĩa với việc đó là hàng Việt Nam vì hiện nay có khá nhiều tập đoàn đa quốc gia đặt nhà máy sản xuất ở Việt Nam như Unilever, P&G, Samsung và nhiều thương hiệu dệt lớn trên thế giới…

Tất cả các sản phẩm này đều có xuất xứ là “made in Vietnam” nhưng chúng không phải là hàng Việt, bởi chúng thuộc về các quốc gia nơi sinh ra các thương hiệu này. Tuy vậy, với đại đa số người tiêu dùng, “made in Vietnam” là hàng Việt, do doanh nghiệp Việt Nam sản xuất.

“Tình trạng “loạn” hàng Việt hiện nay xuất phát không chỉ từ nguyên nhân chính các doanh nghiệp lạm dụng lòng tin của người tiêu dùng vào hàng nội địa, mà ở tầm vĩ mô chúng ta đang cần có đủ căn cứ để xác định thế nào là hàng sản xuất tại Việt Nam. Đây là lý do khiến người tiêu dùng rất dễ bị nhầm lẫn trong khi các doanh nghiệp lại cố tìm cách để phù phép nguồn gốc sản phẩm của họ”.

Theo một chuyên gia kinh tế, khái niệm hàng Việt Nam mới chỉ được nhắc đến một lần trong tài liệu tuyên truyền về cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Cụ thể, hàng Việt Nam “là sản phẩm hàng hóa được sản xuất, lắp ráp và các dịch vụ được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam, tuân thủ pháp luật của Nhà nước Việt Nam; không phải hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu từ nước ngoài”. Khái niệm trên tuy rõ, nhưng nó chỉ được xác lập trong phạm vi điều lệ của một cuộc vận động khuyến khích dùng hàng nội địa chứ chưa được chính danh. Ở đây, câu chuyện xuất xứ hàng hóa còn thể hiện uy tín và thương hiệu của quốc gia.

Tại cuộc họp báo thường kỳ mới diễn ra của Bộ Công Thương, trả lời câu hỏi: Quan điểm của Bộ Công Thương liên quan đến việc Asanzo dán nhãn “made in Vietnam” cho hàng Trung Quốc? Có phải do những quy định về gắn nhãn mác hàng Việt hiện nay chưa có nên doanh nghiệp có thể lợi dụng để gắn nhãn mác, xuất xứ Việt Nam cho bất kỳ sản phẩm nào hay không? Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải cho biết: “Hiện chưa có quy định cụ thể thế nào là hàng hóa, sản phẩm của Việt Nam, thế nào là hàng hóa sản phẩm sản xuất tại Việt Nam”.

Cung cấp thêm thông tin cho phóng viên về việc này, ông Trần Thanh Hải - Phó Cục trưởng Cục xuất nhập khẩu cho hay, tại Việt Nam, việc ghi xuất xứ trên nhãn hàng hóa được thực hiện theo Nghị định 43 ban hành năm 2017 của Chính phủ. Nghị định này quy định bắt buộc mọi hàng hóa lưu hành tại Việt Nam đều phải dán nhãn. Trên nhãn đó có một số thông tin bắt buộc như: tên nhà sản xuất, tên tổ chức cá nhân chịu trách nhiệm lưu thông hàng hóa và xuất xứ hàng hoá...

Điều 15 của Nghị định này cũng quy định, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân lưu thông hàng hóa có trách nhiệm tự xác định thông tin để đưa lên nhãn hàng hóa. Tuy nhiên, Việt Nam đã tham gia nhiều Hiệp định tự do thương mại (FTA) khác nhau, các hiệp định này có quy định về hàng hóa được hưởng ưu đãi thuế quan, nhưng lại chưa có quy định áp dụng với nhãn hàng tại thị trường nội địa.

Ví dụ, hiện nay Việt Nam đang tham gia Khu vực tự do thương mại ASEAN. Để cấp giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D lưu hành trong thị trường ASEAN thì hàng hóa phải đáp ứng tỷ lệ 40% hàng hóa được sản xuất trong ASEAN chứ không phải sản xuất ở Việt Nam. Điều này có nghĩa, một sản phẩm có thể có 10% Thái Lan, 10% Indonesia, 15% Malaysia và chỉ 5% của Việt Nam. Như vậy chúng ta vẫn phải cấp chứng nhận nguồn gốc xuất xứ mẫu D.

Ông Trần Thanh Hải cũng thông tin, Bộ Công Thương đang soạn thảo một văn bản quy định về việc, thế nào hàng hóa, sản phẩm của Việt Nam và thế nào là hàng hóa, sản phẩm sản xuất tại Việt Nam để áp dụng cho hàng lưu thông trong nước. “Văn bản này dự kiến ở cấp Thông tư do Bộ Công Thương ban hành. Khi có dự thảo chính thức, chúng tôi sẽ công bố trên website xin ý kiến rộng rãi các hiệp hội, doanh nghiệp, người tiêu dùng để được sát thực với thực tế và ngăn chặn tình trạng gian lận thương mại như vừa qua” - ông Trần Thanh Hải nói.

Trong thời gian chờ đợi văn bản pháp lý chính thức để “gọi tên” hàng Việt, các lực lượng chức năng vẫn cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ thị trường, phát hiện gian lận, để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng, tránh để người dân phải trả giá đắt cho hàng ngoại đột lốt hàng Việt. Quan trọng hơn, không để niềm tin của người dân vào hàng Việt bị xói mòn.