Học liệu mở Việt Nam - Cơ hội tiếp cận tri thức thế giới

(ANTĐ) - Tính đến, thời điểm này, sau hơn 1 năm triển khai các hoạt động bước đầu kêu gọi các thầy cô giáo trong các trường đại học trên cả nước đóng góp nội dung module và course, Học liệu mở Việt Nam đã có 1101 module có khả năng tái sử dụng, một số module có thể liên kết với nhau tạo thành 217 giáo trình.

Học liệu mở Việt Nam - Cơ hội tiếp cận tri thức thế giới

(ANTĐ) - Tính đến, thời điểm này, sau hơn 1 năm triển khai các hoạt động bước đầu kêu gọi các thầy cô giáo trong các trường đại học trên cả nước đóng góp nội dung module và course, Học liệu mở Việt Nam đã có 1101 module có khả năng tái sử dụng, một số module có thể liên kết với nhau tạo thành 217 giáo trình.

Thuật ngữ Học liệu mở (OpenCourseWare) được Viện Công nghệ Massachusetts - MIT (Mỹ) khai sinh vào năm 2002 khi MIT quyết định đưa toàn bộ nội dung giảng dạy của mình lên web và cho phép người dùng Internet ở mọi nơi trên thế giới truy nhập hoàn toàn miễn phí.

Hiện nay trang web về học liệu mở của MIT có trên 1800 môn học (course) bao gồm bài giảng, lịch học, danh mục tài liệu tham khảo, bài tập về nhà, bài thi, bài thí nghiệm để người dùng có thể tham khảo cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu của mình.

Với tiêu chí “Tri thức là của chung của nhân loại và tri thức cần phải được chia sẻ”, rất nhiều trường đại học và viện nghiên cứu trên thế giới đã tham gia phong trào học liệu mở và lập lên Hiệp hội Học liệu mở (OpenCourseWare Consortium) để chia sẻ nội dung, công cụ cũng như phương thức triển khai học liệu mở sao cho đạt được hiệu quả cao nhất.

Về nguyên tắc, bất kỳ ai có máy tính nối mạng Internet đều có thể truy nhập được Học liệu mở của MIT, tuy nhiên có một số lý do chính cản trở người dùng Việt Nam trong việc sử dụng các học liệu mở một cách trực tiếp: kiến thức nền nói chung của sinh viên Việt Nam và sinh viên MIT rất khác nhau.

Trình độ tiếng Anh của đa số sinh viên Việt Nam chưa được tốt để có thể đọc hiểu nội dung Học liệu mở bằng tiếng Anh; sự khác nhau về phương pháp giảng dạy và học tập của giảng viên và sinh viên giữa Việt Nam và MIT; người dùng Việt Nam không có được nguồn giáo trình và tài liệu tham khảo dồi dào như sinh viên MIT; Điều kiện sử dụng Internet và các cơ sở hạ tầng khác của sinh viên Việt Nam và MIT cũng rất chênh lệch.

Vì những lý do đó, chương trình Học liệu mở Việt Nam ra đời vào tháng 11-2005 với sự hợp tác giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo, Công ty Phần mềm và Truyền thông VASC, và Quỹ Giáo dục Việt Nam (VEF). Mục tiêu của chương trình là xây dựng các phương thức để xóa bỏ các rào cản đối với người dùng Việt Nam để có thể tận dụng một cách tối đa các nguồn học liệu mở sẵn có. Ngày 12-12-2007, trang tin chính thức của chương trình, website www.vocw.edu.vn đã được bấm nút khai trương tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP.HCM

Tính đến nay, sau hơn 1 năm triển khai, website VOCW đã có 1101 module và 217 giáo trình. Một nửa số này là do các thầy cô giáo trong thuộc các trường chủ động đưa lên, nửa số nội dung còn lại có được thông qua các hoạt động tài trợ và chuyển đổi các kho giáo trình đã có.

Trong giai đoạn thử nghiệm (2006-2008), VEF đã tài trợ kinh phí để xây dựng nội dung cho chương trình Học liệu mở Việt Nam. Hơn 30 chuyên gia Việt Nam là giảng viên từ các trường đại học và viện nghiên cứu trong cả nước đã được mời tham gia xây dựng nội dung cho 24 môn học (8 môn học/ngành học) trong các ngành: kỹ thuật điện - điện tử, khoa học máy tính, công nghệ sinh học

Các chuyên gia Việt Nam tận dụng các nguồn học liệu mở sẵn có như MIT OCW, RICE Connexions, OER Commons, các tài liệu và kinh nghiệm của chính mình cũng như tham gia hội thảo với các chuyên gia Mỹ về các tiêu chí xây dựng và thẩm định môn học để xây dựng nội dung mẫu bao gồm bài giảng, bài tập, bài thi, giáo trình… bằng tiếng Anh và có phụ chú bằng tiếng Việt. Sau khi được xây dựng xong, nội dung các môn học sẽ được đánh giá và thẩm định bởi các chuyên gia Mỹ trước khi đưa lên mạng Internet để người dùng Việt Nam có thể sử dụng.

Nội dung được xây dựng theo phương pháp trên đảm bảo được các yếu tố: phù hợp với người dùng Việt Nam vì do chính các chuyên gia Việt Nam xây dựng; đảm bảo chất lượng tương đương với các môn học trong một đại học ở Mỹ vì nội dung được các chuyên gia Mỹ đánh giá và thẩm định; có phụ chú tiếng Việt trong các khái niện hay chủ đề khó để người dùng Việt Nam có thể sử dụng học liệu mở một cách dễ dàng hơn. Những nội dung trên VOCW hiện đã sẵn sàng để các giảng viên và sinh viên tham khảo trong giảng dạy, học tập và nghiên cứu.

 Các môn còn lại đang được các chuyên gia Mỹ thẩm định và nhận xét, dự kiến sẽ lần lượt được xuất bản trên VOCW trong thời gian sớm nhất. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã đồng ý bước đầu chuyển đổi hơn 100 giáo trình trong kho giáo trình sẵn có của mình hiện ở các định dạng MS Word, PDF... sang định dạng của hệ thống VOCW.

Hiện tại ba trung tâm dữ liệu của chương trình tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP.HCM  đã có 28 trương thành viên triển khai phối hợp lắp đặt hệ thống máy chủ do VEF tài trợ và nhiều máy chủ đã chính thức đi vào hoạt động. VOCW cũng đã tổ chức nhiều khóa tập huấn cho hơn 600 cán bộ, giảng viên tại các trường thành viên nhằm giúp các tác giả có thể đóng góp nội dung lên kho học liệu mở Việt Nam.

Linh Nhật