Hà Nội công bố dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội XVII Đảng bộ thành phố để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân (3)

ANTD.VN - Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội khóa XVI đã xây dựng dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu lần thứ XVII Đảng bộ thành phố Hà Nội. Thành phố công bố dự thảo này để lấy ý kiến rộng khắp của các tầng lớp nhân dân.

II. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT

1. Ưu điểm và nguyên nhân

1.1. Ưu điểm

Trong nhiệm kỳ qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô đã bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, với nhiều cách làm sáng tạo và quyết liệt, nỗ lực, quyết tâm thực hiện, đưa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội XVI Đảng bộ thành phố đi vào cuộc sống và đạt được nhiều kết quả nổi bật:

Kinh tế Thủ đô tiếp tục phát triển, đạt mức tăng trưởng khá, cao hơn bình quân chung cả nước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; huy động và phát huy hiệu quả các nguồn lực xã hội; thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt kết quả vượt bậc. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn thiện và phát triển; từng bước đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và bền vững hơn. Tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, tích cực hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, khu vực kinh tế tư nhân phát triển nhanh, tiếp tục phát huy vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Mô hình kinh tế hợp tác xã (HTX) ngày càng đa dạng, tỷ lệ hoạt động hiệu quả ngày càng nâng cao. Xây dựng nông thôn mới thu được kết quả toàn diện, nổi bật, đứng đầu cả nước về số xã đạt chuẩn, với nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả kinh tế cao.

Diện mạo Thủ đô có nhiều thay đổi, ngày càng khang trang, văn minh, hiện đại. Hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội được quan tâm đầu tư, nhiều công trình, dự án quy mô lớn, hiện đại được hoàn thành. Công tác quy hoạch, xây dựng và quản lý đất đai, quản lý đô thị, trật tự, an toàn giao thông, trật tự, kỷ cương xã hội được tăng cường. Nếp sống văn minh đô thị có nhiều chuyển biến tích cực.

Sự nghiệp văn hóa - xã hội, giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ tiếp tục phát triển, đạt được nhiều kết quả quan trọng; chăm lo cho con người và xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh có chuyển biến, tiến bộ; các giá trị văn hóa truyền thống ngàn năm văn hiến được gìn giữ và phát huy; tiếp tục dẫn đầu cả nước nhiều chỉ tiêu về văn hóa, giáo dục - đào tạo, thể thao thành tích cao; năng lực y tế được nâng lên; chất lượng cuộc sống của nhân dân Thủ đô từ thành thị đến nông thôn được cải thiện rõ rệt.

Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh của Thủ đô tiếp tục được củng cố; trật tự, an toàn xã hội có chuyển biến tốt hơn; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng; phối hợp với các cơ quan Trung ương, hợp tác, liên kết với các tỉnh, thành phố trong nước được đẩy mạnh. Vai trò, vị thế, uy tín của Thủ đô ngày càng được nâng cao trong nước và quốc tế.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nhiều đổi mới; Đảng bộ Hà Nội gương mẫu, đi đầu thực hiện nghiêm túc, sáng tạo các Nghị quyết Trung ương (4, 6, 7 khóa XII) gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đạt kết quả toàn diện và quan trọng; củng cố cơ sở Đảng yếu kém; giải quyết tốt nhiều vấn đề phức tạp về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng các cấp, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên, tạo nền tảng, xây dựng Đảng bộ thành phố trong sạch, vững mạnh. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền có chuyển biến tích cực. Nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội được đổi mới. Truyền thống đoàn kết, thống nhất, hợp tác, trách nhiệm trong cấp ủy và tổ chức Đảng các cấp được giữ vững và phát huy.

Các khâu đột phá được tích cực thực hiện. Đột phá về cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư có những chuyển biến rõ nét, cơ bản hoàn thành nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội đề ra. Đột phá về phát triển đồng bộ, hiện đại kết cấu hạ tầng đô thị và nông thôn; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh đã đạt được những kết quả tích cực. 

Hà Nội công bố dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội XVII Đảng bộ thành phố để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân (3) ảnh 1Văn Miếu - Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của Thủ đô Hà Nội

1.2. Nguyên nhân

Đảng bộ thành phố thực hiện Nghị quyết trên nền tảng thành tựu của đất nước sau gần 35 năm đổi mới; trong sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành sâu sát, quyết liệt của Trung ương Đảng, Nhà nước; sự ủng hộ, hợp tác tích cực, hiệu quả của các ban, bộ, ngành Trung ương, của các tỉnh, thành phố trong nước và bạn bè quốc tế. Đồng thời, những tác động tích cực từ kết quả phòng, chống tham nhũng, ngăn chặn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tạo khí thế, động lực, quyết tâm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân Thủ đô tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng, Thủ đô và đất nước.

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô luôn đề cao và phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất, chủ động, sáng tạo, quyết tâm vượt khó, đã bước đầu khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế và nguồn lực to lớn của Thủ đô phục vụ xây dựng, phát triển thành phố. Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận, vào cuộc, chung sức, đồng lòng của các tầng lớp nhân dân, đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức, chức sắc tôn giáo, cộng đồng doanh nghiệp... trong xây dựng Thủ đô ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại.

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Thành ủy, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội các cấp đã đổi mới mạnh mẽ, lựa chọn trúng, đúng và chỉ đạo quyết liệt, sâu sát những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, lĩnh vực khó, phức tạp; giải quyết kịp thời, có hiệu quả những việc phát sinh. Đã phát huy được phẩm chất, năng lực, trí tuệ và tinh thần trách nhiệm cao của đội ngũ cán bộ, đảng viên Thủ đô.

2. Hạn chế, yếu kém và nguyên nhân

2.1. Hạn chế, yếu kém

- Về phát triển kinh tế: Mặc dù tốc độ tăng, quy mô kinh tế cơ bản đạt chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVI đề ra nhưng vẫn chưa tạo được các “đột phá lớn” và chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của thành phố. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của kinh tế Thủ đô chưa cao. Công nghiệp phát triển còn thiếu ổn định. Hiệu quả sản xuất nông nghiệp còn thấp; chuyển dịch cơ cấu nội ngành còn chậm và chưa đáp ứng yêu cầu, số lượng sản phẩm OCOP (Chương trình mỗi xã một sản phẩm nông nghiệp) còn ít, chưa đạt mục tiêu đề ra (301/500 sản phẩm). Chuyển dịch cơ cấu lao động chưa đồng bộ với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngành dịch vụ tăng trưởng dưới tiềm năng, thấp hơn mức tăng GRDP chung, đóng góp trong cơ cấu GRDP có xu hướng giảm; thâm hụt thương mại tuy đã giảm từ mức 1,5 lần kim ngạch xuất khẩu năm 2015 còn 1,0 lần năm 2020, nhưng mức nhập siêu còn lớn (15 tỷ USD/năm) và kéo dài. Tiến độ và quy mô giải ngân vốn đầu tư, nhất là đầu tư công còn hạn chế.

Việc sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước còn chậm, có lúc còn lúng túng, chưa đạt mục tiêu. Số lượng doanh nghiệp tăng chậm, quy mô chủ yếu là nhỏ và siêu nhỏ; mức tăng vốn thấp hơn bình quân chung cả nước; mức tăng doanh thu, lợi nhuận doanh nghiệp còn thấp; hoạt động nghiên cứu và phát triển, đổi mới sáng tạo còn khiêm tốn; trình độ quản lý, sức cạnh tranh và khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của doanh nghiệp còn hạn chế. Khu vực kinh tế tư nhân, doanh nghiệp chủ yếu có quy mô nhỏ và siêu nhỏ; mức tăng doanh thu và tỷ suất lợi nhuận còn thấp; hoạt động nghiên cứu và phát triển, đổi mới sáng tạo, trình độ quản lý, sức cạnh tranh còn hạn chế; mức độ sẵn sàng cho hội nhập và liên kết, tham gia chuỗi với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chưa cao. Kinh tế hợp tác, HTX có quy mô còn nhỏ, 76,6% vốn dưới 5 tỷ đồng. Sự liên kết, hợp tác giữa các HTX còn yếu; mô hình liên hiệp HTX chưa phát huy được hiệu quả. Một số HTX chậm thích nghi với cơ chế thị trường và quá trình đô thị hóa, chủ yếu tập trung thực hiện các dịch vụ truyền thống; khả năng tiếp thu tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới, giống, vật nuôi mới vào sản xuất, cơ sở vật chất còn hạn chế.

Nhiều hoạt động liên kết, hợp tác kinh tế trong và giữa các ngành, các thành phần kinh tế, cũng như giữa Thủ đô với các địa phương trong nước chưa thật chặt, hiệu quả.

- Về xây dựng, quản lý, phát triển đô thị, bảo vệ môi trường: Một số mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ trong công tác quy hoạch của thành phố còn chưa đạt yêu cầu về tiến độ đề ra; chất lượng một số đề án quy hoạch, chất lượng quản lý quy hoạch, quản lý dân cư, quản lý đất đai, trật tự xây dựng, an toàn giao thông vẫn còn hạn chế. Một số chỉ tiêu quan trọng như: Tỷ lệ đô thị hóa, tỷ lệ đất dành cho giao thông, tỷ lệ vận tải hành khách bằng phương tiện công cộng, xử lý ô nhiễm môi trường không khí, kiểm soát và xử lý nước thải... chưa đạt kế hoạch. Khâu đột phá về phát triển đồng bộ, hiện đại hóa từng bước kết cấu hạ tầng đô thị và nông thôn còn có những khó khăn, thách thức, đặc biệt là ở vùng ven đô, hạ tầng phục vụ giao thông công cộng và kết nối liên vùng. Tiến độ triển khai một số dự án hạ tầng kỹ thuật thiết yếu (công trình giao thông, các nhà máy xử lý rác thải, nước thải, công viên...) còn chậm. Công tác quy hoạch và phát triển các đô thị vệ tinh, phát triển nhà ở xã hội, cải tạo chung cư cũ chưa đạt tiến độ; quản lý đầu tư và sau đầu tư các khu đô thị mới, khu nhà ở còn bất cập. Công tác phòng, chống cháy nổ, tai nạn giao thông còn hạn chế, để xảy ra một số vụ cháy gây thiệt hại lớn về người, tài sản. Chương trình di dời các cơ sở gây ô nhiễm môi trường trong khu vực nội đô chưa có nhiều chuyển biến; công tác quản lý, phát hiện, xử lý các vi phạm trật tự xây dựng, đất đai, đô thị, môi trường, nhất là môi trường nước, không khí chưa đáp ứng yêu cầu, để phát sinh nhiều vụ việc phức tạp, nổi cộm, chậm được xử lý, gây bức xúc dư luận. Việc xử lý úng ngập, ùn tắc giao thông còn nhiều thách thức; công tác bồi thường, tái định cư, giải phóng mặt bằng tiếp tục gặp khó khăn.

- Về phát triển sự nghiệp văn hóa, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh: Công tác bảo tồn, khai thác, phát huy vai trò của văn hóa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập, phát triển chưa tương xứng với các tiềm năng, thế mạnh và vị thế Thủ đô. Hệ thống thiết chế văn hóa cả ở cấp thành phố và cơ sở còn thiếu, chưa đồng bộ; hiệu quả sử dụng chưa cao. Công tác xã hội hóa và cơ chế huy động, sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội trong lĩnh vực văn hóa còn bất cập. Lĩnh vực văn học - nghệ thuật chưa có nhiều tác phẩm xuất sắc. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác văn hóa chưa được chú trọng đúng mức. Phát triển công nghiệp văn hóa, xây dựng và hoàn thiện thị trường văn hóa; hoạt động tuyên truyền và quảng bá chưa bắt kịp xu thế hội nhập, phát triển. Việc xây dựng văn hóa trong chính trị, kinh tế chưa được hài hòa. Văn hóa ứng xử của người dân trong gia đình và nơi công cộng chưa có sự thay đổi rõ nét và bền vững; hành vi bạo lực, thiếu văn minh, văn hóa, hiện tượng vô cảm vẫn tồn tại trong xã hội.

- Về phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực quan trọng để nâng cao năng suất lao động, khả năng cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô. Hệ thống cơ chế, chính sách về khoa học - công nghệ chưa hoàn thiện; chưa khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện đổi mới, chuyển giao, nâng cao trình độ công nghệ; chưa tạo tính tự chủ cho các đơn vị nghiên cứu; kết nối hoạt động nghiên cứu giữa các nhà khoa học với thị trường và doanh nghiệp còn yếu. Thị trường khoa học - công nghệ ở Thủ đô còn nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao, thiếu thông tin, thiếu các sản phẩm có giá trị; vai trò của các tổ chức trung gian, tư vấn chuyển giao công nghệ còn mờ nhạt, nhất là các tổ chức có chức năng xúc tiến, định giá công nghệ.

Cơ sở vật chất phục vụ giáo dục - đào tạo, nhất là ở những khu vực mật độ dân số cao, đô thị hóa nhanh còn chưa đáp ứng được yêu cầu; hiệu quả giáo dục đạo đức học đường, nếp sống, ứng xử văn minh ở các cấp học còn có mặt bất cập; chất lượng đào tạo nghề, nhất là cho lao động nông thôn chưa theo kịp yêu cầu của thị trường lao động. Việc chuyển đổi các cơ sở giáo dục - đào tạo công lập sang mô hình tự chủ còn hạn chế. Các chính sách thu hút, sử dụng nhân tài làm việc tại các cơ quan, đơn vị của thành phố còn bất cập, chưa hiệu quả.

- Về bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân: Chất lượng khám, chữa bệnh chưa đồng đều ở các tuyến; chưa giải quyết hiệu quả tình trạng quá tải ở một số chuyên khoa tại các bệnh viện tuyến thành phố; công tác y tế dự phòng, nhất là ở cơ sở chưa thực sự bền vững, còn để xảy ra một số ổ dịch lớn. Tỷ lệ giảm nghèo nhanh nhưng chưa thực sự bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao. Chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị chậm cải thiện; vẫn còn xảy ra một số vụ bạo lực gia đình, bạo hành, xâm hại trẻ em gây bức xúc xã hội.

- Về bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; quốc phòng, quân sự địa phương; tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo: Công tác nắm bắt, dự báo tình hình, tham mưu với cấp ủy, chính quyền trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, mâu thuẫn, xử lý một số vụ việc phức tạp còn hạn chế. Tình hình khiếu kiện đông người, vượt cấp, các loại tội phạm, bạo lực xã hội, bạo lực học đường, tín dụng đen, tội phạm ma túy, băng nhóm hoạt động theo kiểu xã hội đen... còn diễn biến phức tạp. Còn xảy ra vụ việc phức tạp, kéo dài, trở thành điểm nóng về an ninh trật tự, gây hậu quả nghiêm trọng…

Hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về an ninh, trật tự xã hội ở một số địa bàn có lúc, có việc còn chưa cao (quản lý người nước ngoài, quản lý một số dịch vụ văn hóa, quản lý internet, thông tin, truyền thông, xuất bản, báo chí, cơ sở lưu trú, dịch vụ nhạy cảm…). Việc kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh có lúc, có nơi còn chưa chặt chẽ, hiệu quả; giải quyết tồn tại trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng ở một số địa phương còn chậm.

- Về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội: Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số cấp ủy cơ sở còn hạn chế; cá biệt, có cấp ủy mất vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, để xảy ra những vụ việc nổi cộm, phức tạp, trở thành điểm nóng; cấp ủy cấp trên trực tiếp chưa kịp thời có giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục. Sinh hoạt chi bộ ở một số đơn vị còn hình thức, hiệu quả thấp. Tính chiến đấu, tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình ở một số nơi còn hạn chế; có cấp ủy đã có biểu hiện mất “đoàn kết nội bộ” ảnh hưởng không tốt đến phong trào của địa phương. Ý thức, thái độ phục vụ nhân dân, doanh nghiệp của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa tốt, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Còn có biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một số cán bộ, đảng viên, cá biệt có đảng viên còn có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, còn vi phạm, bị kỷ luật. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là ở cơ sở chậm được đổi mới; công tác vận động quần chúng có nơi, có việc chưa đáp ứng được yêu cầu, nội dung, hình thức vận động chưa phong phú, chưa sát đối tượng, hiệu quả chưa cao…

2.2. Nguyên nhân 

Những hạn chế, yếu kém có nhiều nguyên nhân, cả chủ quan và khách quan nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.

Năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành ở một số cấp, ngành, lĩnh vực chưa thực sự quyết liệt, thiếu năng động, sáng tạo, có việc còn trì trệ. Một số cán bộ, đảng viên còn thiếu trách nhiệm, ngại va chạm, đùn đẩy, né tránh. Sự phối hợp giữa các sở, ngành và giữa sở, ngành với quận, huyện, thị xã còn bị động, thiếu chặt chẽ, hiệu quả chưa cao, nhất là đối với những việc phải giải quyết theo cơ chế liên ngành. Công tác kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm của một số đơn vị chưa thường xuyên, chưa đủ mạnh trong việc răn đe, ngăn chặn, xử lý các sai phạm. Việc nắm bắt tình hình, nhất là các yếu kém ở cấp cơ sở chưa được cấp ủy cấp trên trực tiếp quan tâm đúng mức. Các cơ chế, chính sách, giải pháp cho một số vấn đề lớn của thành phố như: Trật tự đô thị; vi phạm đất đai; vi phạm trật tự xây dựng; ô nhiễm môi trường; quản lý và cải tạo chung cư; phòng cháy và chữa cháy; giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo,... còn chậm và hiệu quả chưa cao.

III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Trên cơ sở đánh giá toàn diện kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XVI Đảng bộ thành phố, năm bài học kinh nghiệm chủ yếu được rút ra, gồm:

Thứ nhất, bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo và vận dụng sáng tạo, có hiệu quả các chủ trương của Đảng vào tình hình thực tiễn của Thủ đô; tranh thủ sự phối hợp, giúp đỡ của các ban, bộ, ngành trung ương, các tỉnh, thành trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị, nhất là đối với những nhiệm vụ lớn và khó khăn, phức tạp.

Thứ hai, kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết, hợp tác, trách nhiệm của Đảng bộ, coi trọng đổi mới tư duy, phong cách, phương pháp lãnh đạo vừa toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm, lựa chọn trúng và đúng những vấn đề quan trọng của thành phố; chủ động dự báo, phân tích, đánh giá những vấn đề phức tạp, rủi ro để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết, xử lý kịp thời; đề cao tự phê bình và phê bình; kiên quyết chống chủ nghĩa hình thức; dám nghĩ, dám làm, dám đảm nhận những việc mới, việc khó; quyết liệt chỉ đạo khắc phục những hạn chế, khuyết điểm.

Thứ ba, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; chú trọng việc quán triệt, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm, sự thống nhất, đoàn kết của cán bộ, đảng viên, sự đồng thuận cao trong nhân dân, đồng tâm hiệp lực vượt qua khó khăn, thách thức, khơi dậy lòng tự hào, khát vọng vươn lên, tinh thần thi đua lao động, sáng tạo, tạo động lực và không khí phấn khởi trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết đã đề ra.

Thứ tư, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc của Thành ủy; phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội, lắng nghe, tiếp thu ý kiến xây dựng và phản biện của nhân dân để kịp thời bổ sung, điều chỉnh chủ trương, chính sách, biện pháp phù hợp, gắn kết chặt chẽ, thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ theo hướng phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.

Thứ năm, quan tâm công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, thường xuyên sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ; phát huy vai trò, trách nhiệm, tính tiên phong, gương mẫu của người đứng đầu các địa phương, đơn vị, của cán bộ, đảng viên; tăng cường kiểm tra, giám sát, phòng ngừa và xử lý nghiêm vi phạm, góp phần nâng cao kỷ luật, kỷ cương, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng.

PHẦN THỨ HAI

MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ NHỮNG TRỌNG TÂM PHÁT TRIỂN THỦ ĐÔ GIAI ĐOẠN 5 NĂM 2020-2025

I. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ CÁC ĐỘT PHÁ PHÁT TRIỂN THỦ ĐÔ GIAI ĐOẠN 5 NĂM 2020-2025, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2045

1. Bối cảnh thế giới, khu vực, trong nước và Thủ đô thời gian tới

Tình hình thế giới và khu vực dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác, liên kết phát triển vẫn là xu thế chính nhưng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, xung đột cục bộ, sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác là những thách thức lớn đe dọa sự ổn định và phát triển trên thế giới. Các nước lớn tiếp tục có điều chỉnh chiến lược, linh hoạt, phức tạp; các liên kết kinh tế khu vực và song phương tiếp tục được thúc đẩy, tuy nhiên liên kết kinh tế toàn cầu vẫn gặp khó khăn bởi xu hướng bảo hộ thương mại, hàng rào phi thuế quan gia tăng, nhất là sau tác động của tình hình dịch Covid-19. Kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, tăng trưởng xanh,… là những mô hình được nhiều quốc gia và thành phố lớn trên thế giới lựa chọn. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động nhanh, sâu rộng đến mọi mặt kinh tế, xã hội của toàn thế giới.

Trong nước, vị thế và tiềm lực của đất nước sau gần 35 năm đổi mới đã lớn mạnh hơn nhiều. Năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế được cải thiện đáng kể. Tầng lớp trung lưu tăng nhanh và cơ hội dân số vàng là một trong những động lực cho tăng trưởng. Kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng, một số hiệp định thương mại tự do thế hệ mới quan trọng được thực thi góp phần đẩy mạnh hơn nữa cải cách thể chế kinh tế trong nước, tạo cơ hội mở rộng thị trường, đầu tư cho phát triển công nghiệp và thực hiện công nghiệp hóa.

Tuy nhiên, nền kinh tế dự báo phải đối mặt rất nhiều khó khăn, thách thức và tiềm ẩn nhiều rủi ro như: Các yếu tố nền tảng để sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại còn thấp so với yêu cầu; độ mở của nền kinh tế lớn; năng lực tiếp cận nền kinh tế số còn hạn chế; nguy cơ mắc bẫy thu nhập trung bình và khả năng tụt hậu của nền kinh tế cũng như các vấn đề xã hội, môi trường, dịch bệnh và nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, bảo đảm an ninh quốc gia vẫn là những khó khăn, thách thức lớn.

Trong bối cảnh thế giới, khu vực và trong nước như dự báo, với vai trò và vị thế là Thủ đô, những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen nhưng thời cơ, thuận lợi với Thủ đô vẫn là chủ đạo.

Về thời cơ, thuận lợi: Các thành tựu, kinh nghiệm thu được sau gần 35 năm đổi mới, hơn 10 năm thực hiện mở rộng địa giới Thủ đô theo Nghị quyết của Quốc hội, 10 năm thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TƯ của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô, gần 10 năm thực hiện Luật Thủ đô và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thành phố đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 sẽ giúp cho thế, lực và uy tín của Thủ đô ngày càng được nâng cao. Tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đô thị hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng cùng với sự chủ động tham gia, tận dụng cơ hội của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tạo thuận lợi cho Thủ đô tiếp tục phát triển nhanh và bền vững.

Hà Nội tiếp tục nhận được sự quan tâm, giúp đỡ đặc biệt của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ trong thực hiện các nhiệm vụ quan trọng của thành phố, trọng tâm là Đề án thí điểm quản lý theo mô hình chính quyền đô thị trên địa bàn thành phố và sự hợp tác chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương trong cả nước. Hà Nội có quy mô dân số lớn với cơ cấu trẻ, lực lượng lao động chất lượng cao, quy tụ được đội ngũ cán bộ, chuyên gia, trí thức có trình độ cao. Truyền thống ngàn năm văn hiến, anh hùng, hòa bình, hữu nghị, đoàn kết, nỗ lực, ý chí quyết tâm cao và sự vào cuộc đồng bộ, quyết liệt của cả hệ thống chính trị các cấp và các tầng lớp nhân dân Thủ đô sẽ tiếp tục được phát huy. Những kết quả quan trọng, nổi bật trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị tạo tiền đề thuận lợi cho Đảng bộ trong nhiệm kỳ tới.

Về khó khăn, thách thức: Nhiều vấn đề phức tạp, vướng mắc nảy sinh trong quá trình phát triển chưa được giải quyết căn cơ, tiềm ẩn nhiều nguy cơ như: Giữa yêu cầu bảo tồn với phát triển; tụt hậu về kinh tế; tăng trưởng kinh tế chưa thực sự ổn định, bền vững; khoảng cách giàu - nghèo gia tăng; tình trạng quá tải đối với hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng đô thị do gia tăng dân số cơ học; quy hoạch, xây dựng, quản lý đô thị chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; nguy cơ cháy nổ; tai nạn giao thông; kiểm soát và xử lý nước thải, rác thải, ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm không khí, úng ngập, ùn tắc giao thông; vệ sinh an toàn thực phẩm; dịch bệnh, tệ nạn xã hội; tình trạng khiếu kiện phức tạp;... Trong khi đó, với quyền hạn và các nguồn lực được giao chưa tương đồng với vai trò, trách nhiệm ngày càng nặng nề của Thủ đô đối với cả nước, các vùng lân cận và bạn bè quốc tế.

Năng lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của một số cấp ủy, chính quyền, cơ quan, cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thành phố, nhất là đối với những vấn đề mới phát sinh. Tình trạng suy thoái và các biểu hiện tiêu cực khác trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức chưa được khắc phục triệt để. Các thế lực, phần tử thù địch, phản động trong và ngoài nước luôn lấy Thủ đô làm địa bàn trọng điểm để thực hiện các âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước, gây mất ổn định an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Dịch Covid-19 đã, đang và sẽ tiếp tục tác động rất mạnh đến hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội của Thủ đô; nhất là ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, thu chi ngân sách, đầu tư và thương mại; làm gián đoạn các chuỗi giá trị sản xuất quan trọng; suy giảm tiêu dùng, dịch vụ và du lịch; đòi hỏi vừa phải chủ động phòng chống dịch, đảm bảo an sinh xã hội, vừa phải nhanh chóng phục hồi sản xuất, kinh doanh, tái cơ cấu kinh tế, phát triển mạnh thương mại điện tử, kinh tế số, chuyển đổi số trong các doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước...

2. Mục tiêu tổng quát đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và tầm nhìn phát triển Thủ đô đến năm 2045

Đến năm 2025, xây dựng, phát triển Hà Nội giàu đẹp, văn minh, hiện đại, tiêu biểu cho cả nước, xứng đáng là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia; trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế; động lực phát triển kinh tế - xã hội của vùng và cả nước. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững theo hướng đô thị thông minh, thành phố đổi mới sáng tạo; duy trì tăng trưởng kinh tế cao hơn so với trung bình cả nước và cao hơn giai đoạn 2015-2020. Hà Nội cơ bản trở thành thành phố công nghiệp hóa - hiện đại hóa, GRDP/người đạt 8.100-8.300 USD.

Phấn đấu đến năm 2030, Thủ đô Hà Nội trở thành thành phố “Xanh - Văn hiến - Văn minh - Hiện đại”, đô thị phát triển năng động, hiệu quả, có sức cạnh tranh cao trong nước, khu vực và quốc tế. Hà Nội trở thành thành phố công nghiệp hóa - hiện đại hóa hoàn chỉnh; thành phố thông minh; GRDP/người đạt 12.000-13.000 USD.

Đến năm 2045, Hà Nội là Thủ đô của một nước phát triển, có thu nhập cao; có kinh tế, xã hội phát triển toàn diện, bền vững; người dân Thủ đô có chất lượng cuộc sống cao; là Thủ đô phát triển tương đương với thủ đô của các nước phát triển trong khu vực và có tầm quốc tế. Phấn đấu GRDP/người đạt trên 36.000 USD.

3. Các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2025

3.1. Về kinh tế

(1) Tốc độ tăng trưởng Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân giai đoạn 2021-2025: 7,5-8,0%; trong đó, dịch vụ: 7,5-8,1%; công nghiệp và xây dựng 9,0-9,5%; nông, lâm nghiệp và thủy sản: 2,0-2,5%; thuế sản phẩm: 5,1-5,4%.

(2) Cơ cấu kinh tế năm 2025: Dịch vụ 63,7-64,0%; Công nghiệp và xây dựng 23,4-23,7%; Nông, lâm nghiệp và thủy sản 1,4-1,5%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 11,0-11,2%.

(3) GRDP bình quân/người: 200-205 triệu đồng (8.100-8.300 USD).

(4) Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội: 3,1-3,2 triệu tỷ đồng (giá hiện hành, tăng 12,5-13,5%/năm).

(5) Tỷ trọng kinh tế số trong GRDP trên 25%.

(6) Tốc độ tăng năng suất lao động từ 7,0-7,5%.

3.2. Về văn hóa - xã hội 

(7) Tỷ lệ huyện đạt chuẩn nông thôn mới: 100%; tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu: 30%. thành phố hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới.

(8) Tỷ lệ tổ dân phố được công nhận và giữ vững danh hiệu Tổ dân phố văn hóa: 75%; thôn, làng được công nhận và giữ vững danh hiệu Thôn, Làng văn hóa: 65%; gia đình được công nhận và giữ vững danh hiệu Gia đình văn hóa: 86-88%.

(9) Tỷ lệ trường công lập (mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông) đạt chuẩn quốc gia: 80-85%.

(10) Số giường bệnh/vạn dân: 30-35; số bác sĩ/vạn dân: 15; duy trì 100% xã, phường đạt chuẩn quốc gia về y tế.

(11) Tỷ lệ lao động qua đào tạo: 75-80%. Tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ: 55-60%.     

(12) Tỷ lệ thất nghiệp thành thị: Dưới 3%.     

(13) Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chuẩn của thành phố cuối nhiệm kỳ: Dưới 0,5%.  

3.3. Về đô thị, môi trường

(14) Tỷ lệ đô thị hóa: 60-62%; tỷ lệ diện tích phủ kín của các quy hoạch chung, quy hoạch phân khu: 100%.

(15) Tỷ lệ hộ dân được cung cấp nước sạch: 100%.           

(16) Tỷ lệ các chất thải và nước thải được xử lý đạt tiêu chuẩn về môi trường:

- Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị và nông thôn đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn: 100%;

- Tỷ lệ chất thải nguy hại được xử lý: 100%; tỷ lệ chất thải y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường: 100%;

- Tỷ lệ cụm công nghiệp (đang hoạt động và xây dựng mới) có trạm xử lý nước thải: 100%;

- Tỷ lệ nước thải đô thị được xử lý: 45-50%; tỷ lệ nước thải làng nghề được xử lý: 100%.

(17) Tỷ lệ vận tải hành khách công cộng: 30-35%.

3.4. Về xây dựng Đảng

(18) Số lượng đảng viên mới được kết nạp hằng năm: 9.000-10.000 đảng viên.        

(19) Tỷ lệ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ hằng năm: Trên 75%.        

(20) Tỷ lệ tổ chức Đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ hằng năm: Trên 75%.

Hà Nội công bố dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội XVII Đảng bộ thành phố để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân (3) ảnh 2Với những giá trị về lịch sử và kiến trúc, chùa Trấn Quốc nổi tiếng là chốn cửa Phật linh thiêng, là điểm thu hút nhiều tín đồ Phật tử và khách tham quan

4. Những nhiệm vụ chủ yếu và khâu đột phá

4.1. Các nhiệm vụ chủ yếu

(1) Rà soát, kiến nghị với Trung ương sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Luật Thủ đô nhằm phát huy tiềm năng và thế mạnh của Thủ đô; tận dụng hiệu quả cơ hội từ hội nhập quốc tế và thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị; thực hiện tốt đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế dựa trên ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo gắn với thực hiện đồng bộ 3 đột phá chiến lược; đi đầu trong việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi khả năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, thúc đẩy phát triển kinh doanh hướng tới các chuẩn mực của OECD; khai thác và quản lý hiệu quả kinh tế đô thị; phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, xây dựng xã hội số, thúc đẩy phát triển kinh tế Thủ đô nhanh và bền vững.

(2) Giải quyết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Quản trị xã hội hiệu quả, bảo đảm an sinh, tiến bộ, công bằng xã hội; không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân Thủ đô, giảm chênh lệch mức sống giữa khu vực đô thị và nông thôn. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô. Tập trung xây dựng nền văn hóa Hà Nội trên cơ sở phát huy truyền thống ngàn năm văn hiến, đậm đà bản sắc, anh hùng, hòa bình, hữu nghị gắn với tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh, phát triển toàn diện với những giá trị nhân văn và tinh thần yêu nước sâu sắc, giàu lòng tự hào dân tộc, ý chí, khát vọng phát triển; coi đây là sức mạnh nội sinh, động lực tinh thần to lớn để phát triển Thủ đô.

(3) Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cùng với tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong quản lý đô thị, đất đai, dân cư, trật tự xây dựng, an toàn giao thông, bảo đảm kỷ cương, văn minh đô thị. Rà soát, sớm trình Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh lại Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội, Quy hoạch xây dựng Vùng Thủ đô đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Nâng cao chất lượng quy hoạch, quản lý quy hoạch và phát triển đô thị; tiếp tục đẩy mạnh phát triển đô thị và xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, gắn với quản lý tốt tài nguyên, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai và cải thiện chất lượng môi trường. Tập trung lựa chọn xây dựng một số đô thị vệ tinh đồng bộ, hiện đại, tiết kiệm đất, giữ được bản sắc kiến trúc dân tộc; hình thành một số đô thị thông minh, đô thị xanh; từng bước cải tạo, hiện đại hóa khu vực nội thành cũ. Quản lý, khai thác có hiệu quả các nguồn lực đô thị, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, khai thác, vận hành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội.

(4) Mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, hợp tác, hội nhập quốc tế, giao lưu phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục góp phần tăng cường vai trò, vị thế, uy tín của Thủ đô. Tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang Thủ đô tinh nhuệ, chính quy, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số lực lượng; xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh nhân dân vững chắc, không bị động, bất ngờ trong mọi tình huống; giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, an toàn xã hội, phòng, chống tội phạm hiệu quả; bảo vệ tuyệt đối an toàn các cơ quan đầu não của Trung ương và thành phố, các sự kiện quốc gia, quốc tế.

(5) Tiếp tục tạo chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị thực sự gương mẫu, trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực, tính tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý; chủ động đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; kiên quyết phòng, chống, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các biểu hiện tiêu cực khác; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu…, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng bộ.

4.2. Các khâu đột phá

(1) Ưu tiên hiện đại hóa, phát triển nhanh và đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thiết kế, xây dựng một số công trình kiến trúc tiêu biểu của Thủ đô. Tập trung phát triển hạ tầng giao thông kết nối đô thị trung tâm với khu vực ngoại thành, các đô thị vệ tinh, các đô thị trong vùng Thủ đô. Phát triển mạnh hạ tầng số, hạ tầng CNTT, hạ tầng dữ liệu…, kết nối liên thông, đồng bộ và thống nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số.

(2) Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế, nâng cao hiệu quả quản trị xã hội, quản lý theo mô hình chính quyền đô thị; hoàn thành xây dựng chính quyền điện tử, tiến tới chính quyền số, tạo chuyển biến mạnh mẽ về kỷ luật, kỷ cương, ý thức, trách nhiệm, chất lượng và hiệu quả phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thành phố. Trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Thủ đô tạo thể chế đặc thù, vượt trội để xây dựng và phát triển Thủ đô.

(3) Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, nhân lực quản trị xã hội, quản trị kinh tế…; xây dựng cơ chế phù hợp để thu hút, trọng dụng nhân tài, nhân lực chất lượng cao trong và ngoài nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội. Phát huy các giá trị văn hóa ngàn năm văn hiến, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh và phát triển toàn diện; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, tự lực, tự cường, niềm tin, ý chí và khát vọng vươn lên; đề cao ý thức, trách nhiệm, đạo đức xã hội, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Đưa văn hóa và con người Hà Nội thực sự trở thành giá trị tinh thần to lớn, nguồn lực quan trọng quyết định phát triển Thủ đô.

Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội

(Còn tiếp)

Mọi ý kiến đóng góp vào dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội khóa XVI xin gửi về Báo An ninh Thủ đô, địa chỉ: số 82 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội hoặc Email: antdonline@anninhthudo.vn; thukyantd@gmail.com.