Hà Nội công bố dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội XVII Đảng bộ thành phố để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân (2)

ANTD.VN - Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội khóa XVI đã xây dựng dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu lần thứ XVII Đảng bộ thành phố Hà Nội. Thành phố công bố dự thảo này để lấy ý kiến rộng khắp của các tầng lớp nhân dân.

Hà Nội công bố dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội XVII Đảng bộ thành phố để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân (2) ảnh 1

3. Xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo quyết liệt, sâu sát, đạt kết quả toàn diện, nổi bật

Diện mạo nông thôn thay đổi rõ nét. Đã xây dựng và triển khai quyết liệt, hiệu quả Chương trình số 02-CTr/TU. Hạ tầng kinh tế, xã hội khu vực nông thôn được tăng cường đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây mới, tổng mức vốn huy động đầu tư hằng năm trên 8 nghìn tỷ đồng. Đường làng, ngõ xóm được kiên cố hóa, hệ thống thoát nước cơ bản đáp ứng yêu cầu; các công trình thủy lợi nội đồng được đầu tư xây dựng đảm bảo nhu cầu phục vụ sản xuất; nâng cấp và xây dựng các trường học, nhà văn hóa thôn đảm bảo nhu cầu giảng dạy, học tập và sinh hoạt của cộng đồng. Đặc biệt, hệ thống các trường học từ mầm non, tiểu học, trung học cơ sở đến trung học phổ thông được quan tâm đầu tư xây dựng thành trường học đạt chuẩn quốc gia, đến nay đã có 318/384 xã (tỷ lệ 82,8%) đạt và cơ bản đạt tiêu chí trường học chuẩn quốc gia ở cả 3 cấp. Hầu hết các hộ dân có điện thoại, 100% các xã có kết nối internet.

Dự kiến giai đoạn 2016-2020 có thêm 9 huyện và 170 xã đạt chuẩn nông thôn mới, hoàn thành trước hạn 2 năm so với mục tiêu đề ra. Đến cuối năm 2020, ước có 10 huyện và 371 xã đạt chuẩn nông thôn mới, đạt tỷ lệ 96,1%, là địa phương có số xã đạt chuẩn nông thôn mới cao nhất cả nước. Triển khai xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu; có 11 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu. Cơ bản hoàn thành việc dồn điền đổi thửa; tỷ lệ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ dân sau dồn điền đổi thửa đạt 99,21%, làm cơ sở quan trọng để các hộ nông dân liên kết, ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp. Chuyển đổi hơn 40 nghìn héc ta sang các mô hình sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Nhiều vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh cho hiệu quả cao: Trồng cây ăn quả tại Đan Phượng, Hoài Đức,... đạt 0,5-1 tỷ đồng/ha/năm; nhiều mô hình chăn nuôi tập trung cho hiệu quả kinh tế cao như ở Chương Mỹ, Ba Vì... Vùng trồng hoa, cây cảnh tại Mê Linh, Đông Anh... đạt 0,5-1,5 tỷ đồng/ha/năm. Bước đầu đã xây dựng được các chuỗi liên kết trong sản xuất an toàn thực phẩm.

Đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn được cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn giảm mạnh. Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn ước đạt 55 triệu đồng, gấp 1,36 lần năm 2016. Cơ cấu thu nhập chuyển biến tích cực; tỷ trọng hộ có thu nhập ổn định từ sản xuất công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng lên. Các chỉ tiêu quan trọng về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân đạt kết quả tích cực như: Tỷ trọng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đạt trên 30%; tỷ lệ lao động nông thôn có việc làm thường xuyên trên 98%; tỷ lệ lao động nông thôn có việc làm sau học nghề đạt 85%; tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sạch đạt trên 75%; tỷ lệ người dân tham gia đóng bảo hiểm y tế đạt 90,1%; đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn được nâng lên rõ rệt.

4. Phát triển văn hóa, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh được quan tâm và đạt nhiều kết quả tích cực

Thực hiện bài bản, quyết liệt, sáng tạo Chương trình 04-CTr/TU, coi văn hóa là nền tảng tinh thần, sức mạnh mềm, trung tâm trong chính sách phát triển bền vững Thủ đô. Chất lượng hoạt động văn hóa cơ sở được nâng lên; đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú. Hà Nội là địa phương đầu tiên hoàn thành tổng kiểm kê, đánh giá, phân loại di tích và bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể với 5.922 di tích (trong đó 431 di tích được tu bổ, tôn tạo trong giai đoạn 2016-2020), 1.793 di sản văn hóa phi vật thể. Nhiều di sản văn hóa trở thành điểm đến du lịch hấp dẫn.

Hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở được quan tâm đầu tư (tăng 60 nhà văn hóa cấp xã, 508 nhà văn hóa, điểm sinh hoạt cộng đồng so với năm 2016). Chi đầu tư phát triển văn hóa tăng 30% so với nhiệm kỳ trước. Đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ Thủ đô được chăm lo, phát huy. Hoạt động nghệ thuật biểu diễn chuyên nghiệp có nhiều khởi sắc, với nhiều sản phẩm có chất lượng cao đứng đầu tại các cuộc thi nghệ thuật toàn quốc; phong trào văn hóa, nghệ thuật quần chúng tiếp tục mở rộng, phát triển. Giao lưu văn hóa trong nước, khu vực và quốc tế tiếp tục được mở rộng; nhiều sự kiện văn hóa nghệ thuật lớn, có uy tín, chất lượng cao được tổ chức thường niên tại Thủ đô.

Chiến lược, tầm nhìn phát triển, sáng tạo các giá trị văn hóa mới nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh của Hà Nội được quan tâm, xây dựng phù hợp với xu thế của thời đại. Hà Nội là địa phương đầu tiên của Việt Nam chính thức trở thành thành viên mạng lưới các “thành phố sáng tạo” của UNESCO - Một động lực quan trọng cho đổi mới sáng tạo, xây dựng một thành phố thông minh, năng động và bền vững, nâng cao vị thế, tạo dựng hình ảnh hấp dẫn mới cho Thủ đô. Tổ chức, khai thác có hiệu quả các không gian văn hóa sáng tạo cộng đồng (phố đi bộ hồ Hoàn Kiếm và phụ cận, phố Bích họa Phùng Hưng, phố Sách Hà Nội…) được dư luận xã hội và nhân dân đánh giá cao, trở thành sản phẩm văn hóa - du lịch nổi bật. Công tác quản lý báo chí, xuất bản, truyền thông được tăng cường, hoàn thành quy hoạch báo chí; hoạt động quảng cáo được chấn chỉnh, thực hiện theo luật pháp. Chú trọng đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại, nhất là trên không gian mạng.

Xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh được quan tâm chỉ đạo, với nhiều giải pháp, mô hình thiết thực. Giáo dục truyền thống lịch sử địa phương, nếp sống thanh lịch, văn minh được tăng cường. Nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội có nhiều tiến bộ. Ban hành và thực hiện hai Quy tắc ứng xử trong cán bộ, công chức, viên chức và ở nơi công cộng, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, hưởng ứng. Văn hóa ứng xử, nếp sống văn minh, thanh lịch trong nhân dân Thủ đô có chuyển biến. 

5. Phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được quan tâm đầu tư, đạt kết quả quan trọng

Giáo dục và đào tạo tiếp tục giữ vững vị trí dẫn đầu cả nước về quy mô, mạng lưới trường lớp, chất lượng giáo dục toàn diện, giáo dục mũi nhọn, số học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế; 100% giáo viên đứng lớp đạt chuẩn, tỷ lệ trên chuẩn cao. Hoạt động quản lý giáo dục, dạy học, tuyển sinh, thi, kiểm tra, đánh giá có nhiều đổi mới, nhất là tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, tổ chức dạy học trực tuyến và trên truyền hình; đẩy mạnh hội nhập quốc tế về giáo dục, thí điểm đào tạo chương trình song bằng quốc tế cho học sinh phổ thông. Triển khai cơ chế giao quyền tự chủ gắn với xây dựng trường chất lượng cao ở các cấp học. Thực hiện rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch mạng lưới trường học trên địa bàn nhằm đáp ứng nhu cầu tăng cao về cả số lượng và chất lượng, nhất là khu vực nội thành và các khu vực đô thị hóa nhanh. Hạ tầng giáo dục và cơ sở vật chất phục vụ dạy và học được tập trung đầu tư, trang bị khá đồng bộ, hiện đại; hoàn thành sớm 2 năm chỉ tiêu tỷ lệ trường công lập đạt chuẩn quốc gia.

Giáo dục nghề nghiệp tiếp tục có bước phát triển. Đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng đào tạo, chú trọng phát triển nhân lực trình độ, kỹ năng cao và bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng tốt hơn yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 53,14% năm 2015 lên 70,2% năm 2020; tỷ lệ giải quyết việc làm sau đào tạo đạt trên 70%. Chủ động hợp tác quốc tế, xây dựng và chuẩn hóa khung chương trình đào tạo theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn của khu vực và quốc tế; khuyến khích và hợp tác với các doanh nghiệp trong đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Hà Nội dẫn đầu trong nhiều kỳ thi, hội thi tay nghề cấp quốc gia và quốc tế.

6. Phát triển khoa học và công nghệ được chú trọng đẩy mạnh

Chú trọng khai thác, phát huy tiềm lực, nhất là trí tuệ, tiềm năng “chất xám” của đội ngũ trí thức, các trường đại học và cao đẳng, viện nghiên cứu trên địa bàn để thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của kinh tế Thủ đô. Cải tiến quy trình, rà soát, cắt giảm thủ tục hành chính, tăng cường thực hiện các dịch vụ công trực tuyến; kiện toàn, nâng cao chất lượng bộ máy quản lý Nhà nước; sắp xếp, tinh gọn các đơn vị sự nghiệp, các cơ quan nghiên cứu khoa học, công nghệ thành phố.

Nâng cao hiệu lực, đổi mới cơ chế quản lý các nhiệm vụ khoa học, công nghệ; chuyển mạnh từ phương thức giao trực tiếp sang chủ yếu đặt hàng tuyển chọn. Kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ được ứng dụng hiệu quả hơn vào thực tiễn, phục vụ trực tiếp công tác quản lý Nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô. Triển khai Chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm “Những luận cứ khoa học để đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XVI Đảng bộ thành phố (2015-2020), định hướng phát triển Thủ đô giai đoạn 2020-2025, tầm nhìn đến năm 2030” nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng dự thảo Văn kiện Đại hội XVII Đảng bộ thành phố. Giai đoạn 2016-2020, triển khai thực hiện 345 nhiệm vụ khoa học và công nghệ, trong đó trên 85% nhiệm vụ sau khi nghiệm thu đã được ứng dụng vào thực tiễn.

Quan tâm đầu tư phát triển tiềm lực khoa học, công nghệ. Phối hợp với các bộ, ngành Trung ương đẩy nhanh tiến độ, cơ bản hoàn thành đầu tư cơ sở hạ tầng Khu công nghệ cao Hòa Lạc, tạo làn sóng thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp, tập đoàn lớn trong và ngoài nước. Đầu tư xây dựng, đưa vào hoạt động Vườn ươm doanh nghiệp công nghệ thông tin đổi mới sáng tạo Hà Nội (HBI-IT) từ tháng 1-2017. Hoàn thành dự án đầu tư cơ sở hạ tầng với trang thiết bị, công nghệ hiện đại của thành phố tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc. Tích cực phát triển thị trường khoa học và công nghệ, thúc đẩy thương mại hóa các sản phẩm khoa học và công nghệ. Chủ động hỗ trợ, tư vấn, hướng dẫn thành lập các doanh nghiệp khoa học, công nghệ; giai đoạn 2016-2020 cấp 60 giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ, gấp 2 lần giai đoạn 2010-2015. Công tác thẩm định, đánh giá công nghệ, hỗ trợ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ mới, tiên tiến được quan tâm thực hiện. Khuyến khích các doanh nghiệp thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ để nâng cao năng lực hấp thu, đổi mới công nghệ. Triển khai nhiều chương trình hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, cải tiến quy trình sản xuất; áp dụng hệ thống quản lý chất lượng; chuyển giao, làm chủ và phát triển công nghệ từ nước ngoài vào Hà Nội. Quan tâm kết nối các doanh nghiệp, cá nhân với các nhà khoa học, chuyên gia, tổ chức khoa học công nghệ.

Triển khai tích cực Đề án “Thúc đẩy chuyển giao, làm chủ và phát triển công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên giai đoạn đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” trên địa bàn thành phố, Đề án hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, thiết lập Sàn giao dịch công nghệ thành phố, tổ chức thành công nhiều hoạt động kết nối cung cầu công nghệ, thiết bị chuyên ngành: Chợ công nghệ và thiết bị Hà Nội (Techmart) hằng năm, Diễn đàn khởi nghiệp sáng tạo Hà Nội.

Nâng cao hiệu lực về quyền sở hữu trí tuệ, tăng cường các hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức, hỗ trợ đăng ký bảo hộ, quản lý và phát triển nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể, chỉ dẫn địa lý, khai thác thương mại và phát triển tài sản trí tuệ, góp phần tạo dựng thị trường khoa học công nghệ trên địa bàn thành phố.

Công tác liên kết, hợp tác, hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ được đẩy mạnh và chủ động hơn trong một số lĩnh vực. Quan hệ phối hợp với các doanh nghiệp, trường đại học, viện nghiên cứu trên địa bàn được mở rộng, thiết thực và hiệu quả.

7. Chú trọng bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều đổi mới và tiến bộ. Chất lượng khám, điều trị bệnh được nâng cao; phát triển và ứng dụng nhiều kỹ thuật chuyên sâu, hiện đại trong chẩn đoán, điều trị, trong đó nhiều kỹ thuật ngang tầm với các bệnh viện hàng đầu khu vực. Đầu tư nâng cấp các bệnh viện, cơ sở y tế; nâng cao y đức và thái độ phục vụ bệnh nhân của đội ngũ y, bác sĩ, nhân viên y tế Thủ đô. Triển khai mô hình nâng cao chất lượng hoạt động của Trạm Y tế theo nguyên lý y học gia đình trên địa bàn thành phố; đẩy mạnh công tác lập hồ sơ sức khỏe điện tử. Công tác quản lý y, dược, y tế dự phòng tiếp tục được tăng cường và từng bước đổi mới. Công tác phòng, chống dịch bệnh, nhất là dịch Covid-19 được thực hiện quyết liệt, hiệu quả. Công tác thanh tra, kiểm tra an toàn thực phẩm được tăng cường trên diện rộng; thực hiện tốt các chương trình, mô hình điểm về an toàn thực phẩm, dịch vụ ăn uống và thức ăn đường phố có kiểm soát.

Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình; chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em có bước tiến bộ rõ rệt. Các chỉ tiêu về tỷ suất sinh thô, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên và tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng đều giảm qua từng năm. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được quan tâm, chăm sóc và trợ giúp kịp thời. Nhận thức của xã hội về bất bình đẳng giới được nâng lên.

Thể dục, thể thao được đẩy mạnh, đóng góp nổi bật vào phong trào chung của cả nước. Hà Nội giữ vững vị trí là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về thể thao thành tích cao, giành nhiều huy chương nhất cho thể thao Việt Nam tại các giải quốc tế. Thể thao quần chúng được quan tâm, đầu tư phát triển, nhất là việc xây dựng, lắp đặt dụng cụ thể dục thể thao ngoài trời tại các điểm công cộng. Luyện tập thể dục và tham gia hoạt động thể dục thể thao, nâng cao sức khỏe đã và đang phát triển mạnh, trở thành nhu cầu tự giác trong nhân dân. Thực hiện hiệu quả Chương trình sữa học đường lớn nhất cả nước về quy mô và giá trị; kế hoạch hành động nâng cao thể lực và tầm vóc thanh niên Hà Nội được triển khai rộng rãi, thiết thực.

Lĩnh vực lao động, việc làm của Thủ đô có bước phát triển. Công tác phân luồng học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông được đẩy mạnh. Thực hiện hiệu quả các chính sách đào tạo nghề, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường. Nhiều sàn giao dịch việc làm truyền thống và trực tuyến cùng hệ thống đăng ký hồ sơ tuyển dụng, đào tạo được hình thành, hoạt động hiệu quả. Quản lý Nhà nước về lao động, việc làm chặt chẽ hơn; an toàn lao động được chú trọng. Công tác quản lý lao động người nước ngoài được tăng cường. Các hoạt động hỗ trợ, thúc đẩy thị trường lao động tiếp tục được đẩy mạnh. Giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ thất nghiệp thành thị giảm còn 2,21%; tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng hằng năm đạt 70,2%, tỷ lệ lao động có văn bằng, chứng chỉ đạt 48%.

An sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân Thủ đô được nâng lên. Các chính sách đối với người có công, hộ nghèo, hộ cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số… được thực hiện đúng, đủ và kịp thời. Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp được quan tâm triển khai. Thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; huy động nhiều nguồn lực tài chính phục vụ nhu cầu vay vốn của hộ nghèo và các đối tượng chính sách; hoàn thành chương trình xây nhà cho người có công và hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo. Chỉ tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo hoàn thành sớm 2 năm. Đến cuối kỳ, thành phố cơ bản không còn hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều.

Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội được quan tâm. Các vấn đề gây nguy hiểm, bức xúc trong xã hội được tập trung giải quyết như: Cấm kinh doanh các chất kích thích, gây nghiện (shisa, bóng cười, cỏ,…) tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ giải trí (quán bar, karaoke, vũ trường,…) gắn với kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm. Đấu tranh triệt phá nạn tín dụng đen, các hoạt động kiểu xã hội đen (đòi nợ thuê, cho vay nặng lãi,...), tổ chức môi giới mại dâm. Công tác tuyên truyền, phòng chống tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực được đẩy mạnh. Mô hình xã, phường, địa bàn dân cư, cơ quan, trường học không có tệ nạn xã hội được nhân rộng. Chất lượng quản lý, giáo dục, chữa trị tại các trung tâm chữa bệnh và giáo dục lao động xã hội được nâng lên. Các câu lạc bộ sau cai, đội tình nguyện xã hội tại các xã, phường, thị trấn được duy trì và hoạt động hiệu quả.

8. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu được thực hiện chủ động, tích cực

Về quản lý, khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên, đã hoàn thành điều tra, đánh giá tài nguyên nước, khoáng sản, đất; hệ thống cơ sở dữ liệu tài nguyên; quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản; lập bản đồ trữ lượng khoáng sản và khoanh vùng cấm khai thác. Thực hiện đấu giá quyền khai thác khoáng sản; tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc thăm dò và cấp phép khai thác khoáng sản, khai thác cát trên các tuyến sông; triển khai các giải pháp bảo vệ an toàn cho các tuyến đê và xử lý nghiêm các vi phạm. Thúc đẩy phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, các nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu mới thay thế các nguồn tài nguyên truyền thống trong lĩnh vực xây dựng, giao thông, chiếu sáng. Hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng công nghệ sản xuất xanh, sạch; từng bước chuyển đổi, sử dụng nhiên liệu sạch, thân thiện với môi trường. Hoàn thành lập hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu về đất đai; thực hiện tốt hơn công tác giao đất, cho thuê đất, đặc biệt ban hành và chỉ đạo quyết liệt việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TU của Thành ủy Hà Nội về công tác cấp giấy chứng nhận (GCN) quyền sử dụng đất đã đạt được kết quả nổi bật như: Cấp GCN và đăng ký kê khai đất đai lần đầu đạt 100%; cấp GCN cho người mua nhà tại dự án phát triển nhà ở đạt 94,39%; cấp GCN cho người mua nhà tái định cư đạt 98%; cấp GCN cho hộ gia đình, cá nhân sau dồn điền đổi thửa đất sản xuất nông nghiệp đạt 99,21%; cấp GCN cho các tổ chức đạt 94,67%; cấp GCN cho các cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng đạt 25,53%.

Nghị quyết 11-NQ/TU về tăng cường công tác bảo vệ môi trường được tích cực triển khai. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và ý thức, trách nhiệm trong bảo vệ môi trường với hình thức đa dạng, nội dung phong phú. Thực hiện có kết quả việc hạn chế đốt rơm rạ, sử dụng bếp than tổ ong; các chương trình phân loại, thu gom rác thải nhựa.

Đầu tư hệ thống trạm quan trắc tự động đánh giá ô nhiễm môi trường tại khu xử lý rác thải, nước thải, không khí và các khu vực có nguy cơ gây ô nhiễm. Nâng cao năng lực dự báo, kiểm soát ô nhiễm môi trường. Xây dựng Trung tâm điều hành và quản lý dữ liệu tài nguyên và môi trường, hệ thống hiển thị thông tin đại chúng. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án nhà máy đốt rác phát điện theo công nghệ hiện đại, các nhà máy xử lý nước thải; hệ thống thu gom, trạm xử lý nước thải tại các cụm công nghiệp và làng nghề. Đã xây dựng, triển khai tích cực một số đề án về bảo vệ môi trường. Triển khai lập quy hoạch chi tiết, mở rộng các nghĩa trang tập trung, cơ sở hỏa táng, nhà tang lễ.

Đổi mới công tác duy trì vệ sinh môi trường theo hướng tăng cường cơ giới hóa, tiết kiệm chi phí. Triển khai các giải pháp hạn chế phát sinh nguồn rác nơi công cộng, không để rác tồn đọng trong ngày; lắp đặt khoảng 6.300 thùng rác trên các tuyến đường, phố khu vực nội thành và đưa vào sử dụng trên 100 nhà vệ sinh công cộng bằng nguồn xã hội hóa; tiếp tục lắp đặt thêm khoảng 400 nhà. Xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường nước tại 129 hồ. Xử lý triệt để 25/25 cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, quyết liệt thực hiện kế hoạch di dời các cơ sở công nghiệp không phù hợp quy hoạch, cơ sở ô nhiễm ra khỏi khu vực đô thị. Vận hành hiệu quả Trạm bơm Yên Sở, 28 trạm bơm cục bộ, các nhà máy, trạm xử lý nước thải. Hoàn thành nhiều chỉ tiêu về môi trường. Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm về bảo vệ môi trường. Rà soát, kiểm tra, xây dựng phương án xử lý, khắc phục các “điểm đen” và các khu vực bức xúc về ô nhiễm môi trường.

Thực hiện tốt công tác tuyên truyền với nhiều hình thức đa dạng, hiệu quả để nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn. Đầu tư trang thiết bị, phương tiện hiện đại cho lực lượng cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, cứu hộ, cứu nạn, hạn chế tối đa thiệt hại về người và tài sản của nhân dân. Nâng cao khả năng dự báo, xây dựng và thực hiện các phương án ứng phó với sự cố thiên tai; lồng ghép các biện pháp trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm hạn chế nguy cơ gây biến đổi khí hậu, sự cố môi trường, thiên tai.

9. Tiếp tục giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh

An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo, giữ vững sự ổn định của Thủ đô; thế trận an ninh nhân dân được tăng cường. Thành ủy đã tập trung lãnh đạo thực hiện hiệu quả Chương trình 05 và nhiều chủ trương, giải pháp về đảm bảo an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn, nhất là phát hiện, xử lý kịp thời các vấn đề phức tạp nảy sinh về an ninh trật tự ở cơ sở theo phương châm 4 tại chỗ. 

Chủ động nắm chắc tình hình, triển khai đồng bộ các phương án, kế hoạch phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả với hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, chống đối. Bảo vệ tuyệt đối an toàn các mục tiêu trọng điểm, hoạt động của các cơ quan Trung ương và quốc tế, các sự kiện chính trị, ngoại giao văn hóa diễn ra trên địa bàn, nổi bật là sự kiện Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần thứ hai diễn ra tại Hà Nội được Trung ương ghi nhận, dư luận trong nước và quốc tế đánh giá cao, lan tỏa mạnh mẽ thông điệp “thành phố Vì hòa bình”.

Thực hiện có hiệu quả các giải pháp phòng ngừa tội phạm; mở nhiều đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm, góp phần làm giảm điều kiện phát sinh tội phạm; kiềm chế các loại tội phạm và vi phạm pháp luật; tỷ lệ điều tra, phá án cao. Công tác phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm kinh tế, tham nhũng, ma túy, môi trường, công nghệ cao đạt hiệu quả; các biện pháp phòng, chống buôn lậu, trốn thuế, buôn bán hàng giả, hàng cấm, hàng kém chất lượng, không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm được tăng cường, góp phần giữ vững ổn định xã hội. Mức độ an ninh, an toàn của Thủ đô ngày càng nâng lên, được nhân dân Thủ đô, du khách và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Trật tự, an toàn giao thông, trật tự đô thị được duy trì, tai nạn giao thông giảm; hạn chế xảy ra ùn tắc giao thông kéo dài. Trách nhiệm của cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong phòng cháy, chữa cháy và cứu hộ, cứu nạn từng bước được nâng cao; công tác tuyên truyền về phòng cháy, chữa cháy được tăng cường, góp phần kiềm chế số vụ cháy, nổ và thiệt hại về người, tài sản. Thực hiện tinh gọn bộ máy; xây dựng lực lượng Công an nhân dân ngày càng hiệu lực, hiệu quả; đã tích cực, chủ động thực hiện đưa công an chính quy về xã, phát huy hiệu quả tích cực.

Hoàn thành toàn diện các nhiệm vụ, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang Thủ đô vững mạnh toàn diện.

Quán triệt, thực hiện hiệu quả đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững mạnh; xây dựng khu vực phòng thủ thành phố ngày càng vững chắc cả về tiềm lực và thế trận. Hoàn thành tốt nhiệm vụ diễn tập khu vực phòng thủ thành phố Hà Nội; diễn tập khu vực phòng thủ quận, huyện, thị xã và diễn tập chiến đấu phòng thủ xã, phường, thị trấn đảm bảo chất lượng cao, an toàn tuyệt đối. Quản lý Nhà nước về Quốc phòng được thực hiện chặt chẽ, hiệu quả ở các cấp. Quan tâm đầu tư xây dựng các công trình phòng thủ, căn cứ hậu phương, căn cứ chiến đấu; nâng cao hiệu quả quản lý đất quốc phòng, công trình quốc phòng, khu quân sự.

Thực hiện có hiệu quả công tác bồi dưỡng và giáo dục kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng; qua đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn dân về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Thủ đô trong tình hình mới. Công tác tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ hoàn thành 100% chỉ tiêu với chất lượng cao, thuộc nhóm các địa phương dẫn đầu cả nước.

Duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. Công tác huấn luyện, đào tạo, xây dựng lực lượng có nhiều chuyển biến tích cực. Sức chiến đấu của lực lượng vũ trang Thủ đô không ngừng được nâng lên. Phát huy tốt vai trò nòng cốt, xung kích của lực lượng vũ trang trong nhiệm vụ phòng, chống, giảm nhẹ, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, sự cố môi trường, cháy nổ, cháy rừng, giảm thiểu thiệt hại tính mạng, tài sản Nhà nước và nhân dân.

10. Quan hệ đối ngoại, hội nhập, hợp tác phát triển tiếp tục được mở rộng, đảm bảo thiết thực, hiệu quả, nâng cao vị thế của Thủ đô trong khu vực và thế giới

Hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh với các tỉnh, thành phố trong nước đạt kết quả tích cực, thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm của Hà Nội. Trong nhiệm kỳ, lãnh đạo thành phố đã thăm và làm việc, có thỏa thuận hợp tác với trên 50 địa phương trong nước nhằm thúc đẩy hợp tác phát triển trong nhiều lĩnh vực như: Du lịch, công nghiệp, dịch vụ, thương mại, đầu tư, văn hóa, xã hội... Tổ chức tốt các hoạt động quảng bá văn hóa đặc sắc và hoạt động kinh tế của nhiều vùng miền, địa phương tại Thủ đô và của Thủ đô tại các tỉnh, thành phố trong cả nước. Phát huy tinh thần “Hà Nội vì cả nước”, thành phố đã tổ chức nhiều chuyến thăm hỏi, tặng quà tri ân và hỗ trợ các hoạt động an sinh xã hội khắc phục thiên tai của các tỉnh, thành phố bạn với kinh phí trên 170 tỷ đồng; hỗ trợ xây dựng các công trình văn hóa, giáo dục với kinh phí trên 240 tỷ đồng...

Hoạt động đối ngoại, hội nhập ngày càng hiệu quả, vị thế của Thủ đô trong khu vực và thế giới được nâng cao; duy trì và phát huy vai trò tích cực trong các khuôn khổ hợp tác đa phương với vai trò là thành viên của các tổ chức liên đô thị quốc tế như: Tổ chức thành phố thông minh bền vững thế giới (WeGO), Mạng lưới chính quyền địa phương về quản lý dân cư (CityNet), Nhóm các thành phố dẫn đầu về chống biến đổi khí hậu (C40), Tổ chức quốc tế Pháp ngữ (OIF), Hiệp hội quốc tế các thị trưởng thành phố nói tiếng Pháp (AIMF), Hiệp hội các thành phố lớn thế giới (Metropolis)... Đã chủ động, tích cực, tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương, sự phối hợp, hợp tác của các bộ, ban, ngành trong tổ chức thành công nhiều sự kiện quan trọng của quốc tế và của đất nước. Việc tiếp đón các đoàn ngoại giao chính thức, các đoàn khách quốc tế đến làm việc và tìm hiểu cơ hội hợp tác kinh doanh, đầu tư tại Hà Nội được tổ chức trọng thị, chu đáo, hiệu quả.

Các đoàn công tác do lãnh đạo thành phố dẫn đầu đi thăm các thành phố, quốc gia và vùng lãnh thổ, các đoàn nghệ thuật, thể thao, doanh nghiệp ra nước ngoài trong các chương trình xúc tiến du lịch - thương mại - đầu tư,... được chuẩn bị chu đáo, mang lại hiệu quả cao, thúc đẩy và tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với các đối tác quốc tế. Đã ký kết 32 thỏa thuận quốc tế, nội dung tập trung hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa, du lịch, thu hút các dự án đầu tư nước ngoài, triển khai các chương trình hợp tác: Nông nghiệp công nghệ cao; quản lý đô thị bền vững; giáo dục và đào tạo...

11. Hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền các cấp được nâng lên

Triển khai đồng bộ, hiệu quả các chương trình công tác của Thành ủy, đặc biệt là Chương trình 01-CT/TU và 08-CT/TU gắn với Nghị quyết 39-NQ/TƯ của Bộ Chính trị, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII về tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động hệ thống chính trị, mục tiêu là xây dựng chính quyền phục vụ người dân hiệu quả.

Việc thực hiện khâu đột phá về cải cách hành chính, tạo bước chuyển biến mạnh về kỷ luật, kỷ cương, ý thức, trách nhiệm, chất lượng phục vụ nhân dân và doanh nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được thực hiện quyết liệt, đạt kết quả tích cực. Cải cách hành chính được tổ chức triển khai đồng bộ, toàn diện trên tất cả các nội dung. Việc xác định chủ đề năm 2016, 2017 là “Năm kỷ cương hành chính” và năm 2018, 2019 là “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị” đã tạo chuyển biến mạnh mẽ, tích cực, hiệu quả trong công tác quản lý, điều hành, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân và doanh nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người đứng đầu cơ quan hành chính Nhà nước. Mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp trong các giao dịch hành chính, dịch vụ hành chính công được cải thiện. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được nâng cao và chuẩn hóa, có sự chuyển biến về tư duy, phong cách làm việc, ý thức trách nhiệm trong thực thi công vụ, giải quyết công việc với người dân, doanh nghiệp. Tích cực tiến hành rà soát, đơn giản hóa, rút ngắn thời gian giải quyết đối với 261 thủ tục hành chính; thí điểm việc kết nối, tích hợp với Cổng dịch vụ công quốc gia; tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 ước đạt 100%, là địa phương dẫn đầu cả nước. Qua đó, các chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động của chính quyền thành phố được cải thiện qua các năm: Chỉ số cải cách hành chính cấp tỉnh (PAR INDEX) năm 2018 xếp thứ 2 (tăng 7 bậc so với 2015), Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2018, 2019 xếp thứ 9/63 tỉnh, thành phố (tăng 15 bậc so với năm 2015).

Chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND các cấp được nâng lên. HĐND các cấp đã hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, thể hiện rõ vai trò là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của cử tri và nhân dân Thủ đô. Chất lượng các kỳ họp HĐND tiếp tục được nâng lên, đi vào thực chất, phát huy dân chủ, trí tuệ của các đại biểu. Qua 4 năm của nhiệm kỳ, HĐND thành phố đã ban hành 148 nghị quyết, trong đó có 79 nghị quyết chuyên đề. Nghị quyết HĐND được ban hành đúng luật, là cơ sở pháp lý, điều kiện thuận lợi để phát huy tiềm năng, thế mạnh, xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân Thủ đô. Hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn và hoạt động giải trình có nhiều đổi mới, giám sát đến cùng những vấn đề quan trọng, dân sinh bức xúc. Công tác giám sát, khảo sát được triển khai bài bản, đảm bảo trọng tâm, trọng điểm và đạt hiệu quả cao; HĐND, các ban, Tổ đại biểu HĐND thành phố đã tổ chức giám sát 208 cuộc (tăng 109 cuộc so với nhiệm kỳ trước), lan tỏa cách làm hiệu quả đến HĐND các cấp, tác động tích cực đến công tác chỉ đạo, điều hành của chính quyền. Hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp công dân và đôn đốc giải quyết kiến nghị của cử tri được quan tâm, tỷ lệ giải quyết xong ở cấp thành phố đạt 90%; kiến nghị thuộc thẩm quyền giải quyết ở cấp huyện, cấp xã cơ bản được xem xét, giải quyết dứt điểm, tạo niềm tin, sự đồng thuận của nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền thành phố.

Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của UBND các cấp được tăng cường; phương pháp chỉ đạo, điều hành có sự đổi mới mạnh mẽ theo hướng sâu sát, cụ thể “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ quy trình, rõ hiệu quả”, “một việc, một đầu mối xuyên suốt”. Đã tăng cường xây dựng hạ tầng và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành và phục vụ người dân, doanh nghiệp hướng tới mục tiêu “xây dựng chính quyền đô thị tinh gọn, quản trị hiện đại”, chú trọng triển khai xây dựng chính quyền điện tử. Việc phân cấp, phân quyền và ủy quyền từ thành phố xuống cơ sở được tăng cường, nhất là các lĩnh vực bồi thường, giải phóng mặt bằng, đấu giá đất, vệ sinh môi trường. Việc xây dựng, ban hành, rà soát văn bản quy phạm pháp luật được tiến hành thường xuyên, kịp thời, có chất lượng. Thanh tra công vụ được tăng cường, góp phần chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương, tạo được chuyển biến mạnh mẽ về ý thức, trách nhiệm, chất lượng phục vụ nhân dân và doanh nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thành phố, nhất là cấp cơ sở. Sự nỗ lực, cố gắng của thành phố đã được cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân ghi nhận, đánh giá cao qua các chỉ số đạt được.

Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội

(Còn tiếp)

Mọi ý kiến đóng góp vào dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội khóa XVI xin gửi về Báo An ninh Thủ đô, địa chỉ: số 82 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội hoặc Email: antdonline@anninhthudo.vn; thukyantd@gmail.com.