Những nhà giáo ưu tú nhất lịch sử Việt Nam được lưu danh sử sách

ANTD.VN - Lịch sử giáo dục Việt Nam xưa nay đã ghi nhận rất nhiều tấm gương các nhà giáo mẫu mực, tài cao, đức dày, được các thế hệ học trò yêu mến. Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam, chúng ta hãy cùng điểm lại những người thầy, người cô ưu tú này.

Chu Văn An

Chu Văn An sinh năm 1292 tại xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội). Ông là nhà giáo, thầy thuốc, đại quan dưới triều Trần.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Chu Văn An "tính cương nghị, thẳng thắn, sửa mình trong sạch, không cầu lợi lộc". Ông ở nhà đọc sách, học vấn tinh thông, nổi tiếng gần xa, "học trò đầy cửa, thường có kẻ đỗ đại khoa". Sinh thời, ông được dân chúng tôn là "Vạn thế sư biểu", nghĩa là người thầy chuẩn mực muôn đời của Việt Nam.

Thầy Chu Văn An vốn là người chính trực nên không thích việc quan trường luôn ẩn chứa nhiều điều thị phi. Ông mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung bên sông Tô Lịch (Hà Nội ngày nay).

Đền thờ thầy Chu Văn An

Sau này, ông được chính vua Trần Minh Tông mời đến dạy tại Quốc Tử Giám và làm thầy riêng cho thái tử Trần Vượng, tức vua Trần Hiến Tông.

Điển tích nổi tiếng nhất của thầy Chu Văn An khi sinh thời thể hiện sự chính trực chính là việc ông dâng “Thất trảm sớ”, yêu cầu vua Trần Dụ Tông chém đầu bảy tên gian thần song bị vua từ chối. Sau đó, ông cáo lão, về ở ẩn gần núi Phượng Hoàng, Chí Linh, Hải Dương, làm một thầy giáo truyền thụ kiến thức cho đến khi mất.

Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nhà giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, tự là Hạnh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ hay còn được biết đến với cái tên quen thuộc là Trạng Trình.

Ông sinh ra ở làng Trung An, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng) dưới thời vua Lê Thánh Tông - thời kỳ thịnh trị nhất của nhà Lê sơ.

Giống như rất nhiều vị hiền nhân khác trong lịch sử, thời thế loạn lạc đã khiến ông không hứng thú với chốn quan trường. Tính từ khi trưởng thành, ông bỏ qua sáu khoa thi dưới triều Lê sơ.

Thầy giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhiều học trò yêu mến

Tới năm 1535, dưới thời vua Mạc Đăng Doanh, thời thịnh trị nhất của nhà Mạc, ông mới quyết định đi thi và đậu ngay trạng nguyên. Năm đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ngoài 40 tuổi.

Ngay từ khi chưa đỗ trạng nguyên, Nguyễn Bình Khiêm đã dạy học. Ông giáo dục cho nhân dân và học trò rất nhiều về đạo làm người, đạo lý ở đời, sự học, cách học. Ông coi việc giáo dục phải thực hiện được vai trò định hướng ý chí và hành động cho người học, nhất là việc gắn ý chí học hành với lý tưởng cống hiến hết mình cho đất nước.

Lê Quý Đôn

Lê Quý Đôn (1726-1784), tự là Doãn Hậu, hiệu là Quế Đường, người huyện Diên Hà (nay thuộc Hưng Hà, Thái Bình). Ông là con của tiến sĩ Lê Trọng Thứ, từng làm đến chức Hình bộ Thượng thư.

Từ nhỏ, Lê Quý Đôn đã nổi tiếng thần đồng khắp trấn Sơn Nam. Đâu đâu người ta cũng bàn về cậu bé thông minh, có trí nhớ lạ kỳ. Năm 13 tuổi, ông theo cha lên học ở kinh đô, 14 tuổi đã học hết Tứ thư, Ngũ kinh, sử, truyện và đọc đến cả Bách gia chư tử, một ngày có thể làm xong mười bài phú.

Nhà giáo Lê Quý Đôn có kiến thức uyên bác, gần như thâu tóm được mọi tri thức thời bấy giờ

Sau này, khi thi đỗ đạt, ông ra làm quan và giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều đình. Lê Quý Đôn là nhà bác học có kiến thức uyên bác, gần như thâu tóm được mọi tri thức thời bấy giờ. Ông đã để lại nhiều bộ sách có giá trị ở nhiều thể loại khác nhau như lịch sử, địa lý, thơ văn, lý số… Ngoài ra, ông còn là một nhà Nho, nhà giáo dục tài năng và đức độ.

Qua bàn tay dạy dỗ với những bài học về kiến thức, đạo đức làm người, học trò của ông có rất nhiều người đã thành tài và giữ chức vụ quan lớn trong triều đình như Bùi Huy Bích, Bùi Bích Tựu...

Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu, sinh năm 1822, tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, hay còn được gọi với cái tên thân mật là cụ đồ Chiểu. Ông là một trong những nhà thơ, nhà văn hóa lớn ở thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam. Ông đã để lại cho đời rất nhiều áng văn lỗi lạc như Lục Vân Tiên, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc….

Nhà Giáo Nguyễn Đình Chiểu tuy có cuộc đời bất hạnh nhưng luôn giữ khí chất thanh cao

Nguyễn Đình Chiểu là một trong những con người có cuộc đời khá bất hạnh. Xuất thân trong một gia đình nhà Nho, ông cũng có một tương lai tươi sáng khi đang rộng bước trên con đường khoa cử. Tuy nhiên, khi mẹ mất, ông đã vì quá thương mẹ mà khóc đến mù cả hai mắt, sau đó là bị bệnh tật, hôn thê bội ước, gia cảnh sa sút.

Sau ba năm chịu tang mẹ, Nguyễn Đình Chiểu mở trường dạy học và bốc thuốc ở quê nhà Gia Định. Học sinh đến rất đông. Thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu được gọi là đồ Chiểu từ đó.

Theo cuốn Những người thầy trong sử Việt, đồ Chiểu được nhiều học trò quý mến vì tài năng, đức độ. Một môn sinh ở trường của Nguyễn Đình Chiểu vì lòng cảm mến, đã tác thành cho em gái cưới thầy giáo để ông có người nâng khăn sửa túi. 

Nguyễn Thị Lộ

Nguyễn Thị Lộ sinh năm 1400 (thời nhà Hồ) có cha làm nghề thầy thuốc. Tính vốn thông minh thiên bẩm, gia đình lại có điều kiện nên được học hành cẩn thận. Hơn 10 tuổi bà đã thuộc hết sách Tứ Thư, Ngũ Kinh lại thông hiểu y dược, âm luật, lịch số, các môn đều thấu hiểu đến chỗ uyên bác. 15 tuổi bà đã nổi tiếng khắp phủ Tân Hưng.

Nguyễn Thị Lộ được cho là nữ nhà giáo đầu tiên dạy học trong cung đình

Theo sách Những người thầy trong lịch sử Việt Nam, Lễ nghi nữ học sĩ Nguyễn Thị Lộ chính là vị nữ quan đầu tiên của chế độ phong kiến Việt Nam. Bà cũng được cho là nữ nhà giáo đầu tiên dạy học trong cung đình.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, bà nhiều lần thay Nguyễn Trãi soạn thảo một số công văn, thư từ, thậm chí còn viết thư chiêu hàng tướng giặc. Sau khi nhà Lê thành lập, bà được vua Lê Thái Tông phong làm Lễ nghi học sĩ, chịu trách nhiệm dạy các cung tần, mĩ nữ những lễ nghi, phép tắc của triều đình.

Cách dạy học của bà rất sáng tạo, tự tay bà viết giáo trình dạy các cung nữ. Cũng trong thời gian này, bà nhiều lần xin chỉ dụ của nhà vua để mở mang học vấn cho nhân dân, khuyến khích phụ nữ đọc sách thánh hiền.