Đi dưới những ngọn núi

ANTD.VN - Với tôi, Hồ Chí Minh là một ngọn núi lớn, cao mà ngay cả những nhà nghiên cứu am tường cũng chưa hiểu hết. Được gặp các nhân chứng, tiếp cận tài liệu để làm phim về Bác cũng là hành trình khám phá ngọn núi lớn ấy.

Đi dưới những ngọn núi ảnh 1Từ trái sang: Nhà văn Trung Trung Đỉnh, nhà văn Ngô Thảo, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên và đạo diễn Đào Trọng Khánh gặp nhau tại lễ giỗ nhà văn Bùi Ngọc Tấn tại Hải Phòng. Ảnh: Nguyễn Đình Toán

Sư cụ chùa Hoa Yên mà tôi quen gọi bằng thầy thường đi bộ một mình qua những dãy núi Đông Bắc, sang đến tận Vân Nam (Trung Quốc), rồi lại trở về. Chuyến cuối cùng cách đây đã hơn 50 năm, thầy tôi không trở lại. 

Tôi không biết vì lẽ gì mà thầy tôi thường phải đi bộ một mình về núi xa? Nhớ lại một đêm trăng, dưới chân tháp Độ Nhân phía sau chùa, thầy tôi nói: “Đời người ai cũng có những đỉnh núi xa ở cõi lòng mà suốt đời hướng tới. Kết thúc đời sống, nghĩ cho cùng cũng chỉ là một lần đi bộ về núi xa thôi con ạ!”.

Nhà văn Sơn Tùng được trời cho cơ duyên biết nhiều chuyện chưa mấy ai biết về Bác Hồ, có lần nói: “Trên thế gian này, có lẽ Bác Hồ là người đi bộ nhiều nhất trong suốt cuộc đời. Từ khi còn nhỏ lên 5 tuổi đã theo cha mẹ vượt đèo Ngang vào Huế. Đến khi sắp từ giã cõi đời, Người vẫn mơ ước được đi bộ vượt Trường Sơn vào với đồng bào miền Nam. Mỗi lần nhớ đến đồng bào, Bác Hồ lại khóc!”.

Mùa hè năm 1950, Sơn Tùng được nghe cụ Cả Khiêm, anh ruột Bác Hồ kể: “Quãng năm 1895, hai anh em tôi, thuở ấy còn mang tên Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Cung, theo bố mẹ đi bộ từ Nam Đàn vào kinh đô Huế, cứ dọc đường cái quan mà đi, mỗi người mang một đôi dép mo cau, lúc nào rách lại thay đôi khác”.

Ông Sắc cõng Sinh Cung rảo bước. Bà Loan gồng gánh đồ đoàn, dắt tay Sinh Khiêm cặm cụi theo sau. Chú bé Sinh Cung 5 tuổi được cha cõng trên lưng, thấy Hoành Sơn có con đường mòn đất đỏ vắt qua đẹp quá, reo lên thành thơ: “Núi cõng con đường mòn/Cha thì cõng theo con/Núi nằm ì một chỗ/Cha đi cúi lom khom/Đường bám lì lưng núi/Con tập chạy lon ton/Cha siêng hơn hòn núi/Con đường lười hơn con!”. Bài thơ được cụ Cả Khiêm chép lại trong tập Tất Đạt tự ngôn. Năm 1950, cụ đưa cho nhà văn Sơn Tùng vài tháng trước khi cụ mất.

Sau này, khi làm phim về đất nước, tôi nhiều lần đi dọc miền Trung. Phong cảnh khiến tôi mường tượng thấy hình bóng của Bác cắm cúi giữa con đường vượt qua những đỉnh đèo cao. Tháng 7, vào mùa nắng dữ, các bụi tre gai bên đường vào Phan Rang hàng trăm cây số hoang dã, khô cháy một màu chết chóc, không bóng người. Toàn thân chết khát, hai bàn chân bỏng rộp, lê bước trên đường, 19 tuổi, Người một mình đi bộ đến được Sài Gòn! 

Đầu năm 1990, ở Trung Quốc, tôi từ Nam Ninh về Tĩnh Tây, với ý định thăm nơi Bác và hoạt động cách mạng quãng năm 1942, khởi đầu cho chuyến đi bộ gian nan cực khổ nhất trong đời hoạt động của Bác, chuyến đi Nhật ký trong tù. Tĩnh Tây là  huyện (gồm 11 trấn, 8 hương) trong thành phố cấp địa khu Bách Sắc của khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây.

Ô tô chạy suốt đêm, đường dài thăm thẳm, đồi núi trập trùng. Chòm xóm dưới thung xa, thấp thoáng ánh đèn như ánh sao mờ. Uống trà ở quán trà nhỏ tên thơ mộng “Lô Sơn Vân Vụ” (Sương mờ trên đỉnh Lô Sơn). Tôi bước vào xóm Pà Mông - xóm nhỏ xưa cũ, cây cầu gạch cổ bắc qua con suối nhỏ cạn trơ sỏi đá. Nắng vàng hiu hắt trên những mái ngõ cũ rêu xanh.

Ngồi trò chuyện với bà con trong xóm sang chơi nhà cụ Từ Vĩ Tam, anh em kết nghĩa với cụ Hồ từ năm 1940. Cụ ông đã qua đời, chỉ còn cụ bà tuổi ngoài 80. Nhắc tới cụ Hồ, cụ bà vừa khóc, vừa lấy vạt áo bông xanh lau nước mắt. Cụ Hoàng Tài Hán, hàng xóm của cụ Tam dẫn tôi đi thăm núi Phong Nham. Trên núi, có hang Thông Phong xuyên qua núi, sương khói mờ ảo, ẩn hiện mấy bài thơ viết trên vách đá. Cụ Hán trân trọng nói với tôi: “Đó là bài thơ của cụ Hồ. Cụ ở trong hang với tôi hồi năm 1941”. Độ ấy, cụ Hán sinh nhai bằng nghề nấu rượu. Cụ Hồ thường giúp cụ Hán nhóm lửa, nếm rượu. Hai cụ ngồi canh nồi rượu, rù rì trò chuyện suốt đêm, cùng lắng nghe gà gáy vọng lên dưới xóm Pà Mông mịt mùng.

Tôi lấy làm tiếc không ghi lại được bài thơ Bác viết trên vách đá, ánh sáng mập mờ, chỉ đọc được bốn chữ: “Ẩn cư hoạt lộ” (ở ẩn để tìm đường hoạt động). Mong ước dịp nào đó, trở lại đây với máy quay phim, ghi lại thơ của Bác. 

Làm phim về Hồ Chí Minh là kỷ niệm lớn, dấu ấn nổi trội trong sự nghiệp của tôi, đó không chỉ là một lãnh tụ, danh nhân văn hóa thế giới, một nghệ sĩ, mà còn là người bộ hành vĩ đại. Trong chùm phim được giải thưởng Nhà nước năm 2007 của tôi, có Truyền kỳ (3 tập: Hình bóng tổ tiên, Truyền kỳ sự thật, Hồ Chí Minh - Hình ảnh của Người). 

Phim tầm vóc mà tôi rất tâm đắc là Hồ Chí Minh với Trung Quốc (71 phút). Phim này tôi là biên kịch và đạo diễn cùng Thanh An (1934-2011), quay phim Hoàng Tấn Phát - Quốc Thành. Nhóm NSND này nay chỉ còn tôi ở Hải Phòng, Đặng Nhật Minh ở Hà Nội, và cơ hội hợp tác duy nhất trong đời chỉ có nhờ duyên với Bác. Lúc đó, đạo diễn Đặng Nhật Minh là Tổng Thư ký Hội Điện ảnh Việt Nam kiêm Giám đốc Hãng phim Hội Điện ảnh, nên ông là  giám đốc sản xuất của phim này, còn  đạo diễn Thanh An là Phó tổng thư ký thường trực của Hội. 

Tôi đã 3 lần sang Trung Quốc. Đoàn làm phim về Bác Hồ đến hầu hết những nơi Bác từng hoạt động, đến cả Thúy Hồ - nơi Hồ Chí Minh gặp Võ Nguyên Giáp. Không cuộc gặp nào khiến tôi xúc động như được “gặp” Bác trên nhiều địa danh Trung Hoa rộng lớn. Cảm hứng viết bài này là nỗi xúc động khi nhớ hành trình theo hành trình của Bác. Đặc biệt là từ tiểu sử về quãng đời bôn ba cách mạng của Người. 

Hạ tuần tháng 8-1942, cụ Hồ từ Pác Bó sang Tĩnh Tây, dừng chân ở Pà Mông, nhờ một người anh em trong xóm là Dương Thao dẫn đường đi Trùng Khánh tìm gặp Chu Ân Lai và phái đoàn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Không may, đi đến chợ Túc Vinh huyện Đức Bảo, hai  thầy trò bị bọn hương dũng Quốc dân Đảng bắt giam. Từ nhà giam chuyên khu Tĩnh Tây, ngày 29-8-1942, cụ Hồ bị áp giải qua các huyện và thành phố: Điền Đông, Thiên Đằng, Long An, Ung Ninh, Nam Ninh, Vũ Minh, Tân Dương, Liễu Châu, Quế Lâm... Trải qua mười mấy nhà giam, đến ngày 10-9-1943, mới được trả tự do ở Liễu Châu, tính ra vừa hết 1 năm 12  ngày. 

Đây là chuyến đi bộ cực khổ tột cùng. Đường dài sỏi đá gập ghềnh, vượt qua núi cao vực thẳm. Mùa hè, những cánh đồng khô cháy, nắng như đội lửa; mùa đông gió cắt thịt da, đường sá mênh mang không một bóng người. Chỉ có người tù và toán lính áp giải lê bước trên đường: “Dạ như hắc ám dĩ đăng trình/ Lộ hựu khi khu thậm bất bình” (Còn tối như bưng đã phải đi/Đường đi khúc khuỷu lại gồ ghề); “Nhật hành ngũ thập tam công lý/Thấp tận y quan phá tận hài” (Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa, rách hết giày).

Bụng đói, cật rét, tay bị trói, cổ bị xiềng, run rẩy suốt lộ trình dằng dặc như thế, dù là người thép cũng không chịu nổi! Vậy mà Người đã vượt qua để rồi bao nhiêu gian lao, khổ hận, núi thẳm, non cao cuối cùng chỉ còn đọng lại trong một tứ thơ, một tư tưởng Hồ Chí Minh thanh thản, tận cùng: “Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan/Trùng sơn chi ngoại hựu trùng sơn/Trùng sơn đăng đáo cao phong hậu/Vạn lý dư đồ cố miện gian” (Đi đường mới biết gian nan/Núi cao rồi lại núi cao trập trùng/Núi cao lên đến tận cùng/Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non).

Tháng 10-1944, Bác Hồ qua biên giới Việt - Trung, đi bộ về Pác Bó, huyện Hà Quảng, Cao Bằng. Đi từ sáng đến chiều tối về tới Khum Đắc. Các đồng chí được gần Bác ở Cao Bằng kể lại: “Ở Pác Bó, Bác thường hay đi chơi núi. Núi cao là niềm ham mê của Bác. Con đường mòn lên núi nhiều gai góc, dây leo chằng chịt, đá nhọn chắn đường, lau già trổ cờ trắng bạc ngả sang hai bên lấp mất lối. Bác leo tít lên đỉnh núi cao, có khi lại xuống thật sâu dưới thung lũng. Cả người Bác, cả tâm hồn Bác như hòa vào với núi”.