- Phát động sáng tác kịch bản sân khấu về Hà Nội, hướng tới kỷ niệm 65 năm Ngày Giải phóng Thủ đô
- Minh Vương, Thanh Tuấn tổ chức liveshow tri ân khán giả nhân kỷ niệm 100 năm cải lương
- Nhiều hoạt động nghệ thuật tôn vinh 100 năm cải lương
Một vở cải lương của đoàn Thanh Minh - Thanh Nga
Nghệ thuật cải lương ra đời năm 1918 ở Nam bộ. Trong 100 năm tồn tại và phát triển, bộ môn nghệ thuật này có lúc thăng lúc trầm nhưng giai đoạn 1954-1975 có nhiều câu chuyện đáng nói.
3.000 diễn viên và 60 rạp hát
Trong những báo cáo còn lưu lại, số diễn viên và công nhân sân khấu khi đó lên tới 3.000 người. Thế nhưng phần đông diễn viên khi đó không học hành, chỉ nhờ trời phú cho giọng ca và bỗng nhiên họ trở thành nghệ sỹ và diễn xuất của họ chỉ minh họa nội dung kịch bản.
Để phục vụ cho các gánh hát, cuối thập niên 50, đầu thập niên 60, hàng loạt các rạp hát lớn nhỏ ra đời ở hầu khắp các tỉnh miền Nam. Tính riêng Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định có 39 rạp gồm: Olympic, Quốc Thanh, Thanh Bình, Hưng Đạo, Nguyễn Văn Hảo, Khải Hoàn, Hào Huê... Lớn nhất và sang nhất là rạp Hưng Đạo, rạp được xây năm 1960, có máy lạnh nên mùa hè nóng nực vẫn thu hút khán giả đến xem.
Hưng Đạo có 1.100 ghế nhưng 100 ghế là của chủ rạp, các đoàn hát chỉ bán vé 1.000 ghế, trong đó 300 ghế hạng nhất với giá vé 120 đồng (giá hủ tiếu thời kỳ này khoảng 6 đồng/tô), 200 ghế hạng nhất giá vé 80 đồng, 200 ghế hạng nhì giá vé 60 đồng và 300 ghế hạng 3 giá 40 đồng. Rạp Quốc Thanh (nay là 271 Nguyễn Trãi phường Nguyễn Cư Trinh, Q1) có 1.000 ghế, cũng lắp máy lạnh. Ngoài ra rất nhiều ngôi đình nằm rải rác ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định cũng là nơi tá túc của các gánh nhỏ đêm đêm diễn cho dân lao động nghèo xem.
Đội ngũ soạn giả đông đảo và năng động
Không có khán giả là chết nên vở nào ra rạp vài ngày mà không bán được vé lập tức bầu đoàn cho dựng vở mới. Để có vở mới thì phải có kịch bản và nhiệm vụ đó do soạn giả thường trực tại các đoàn đảm nhiệm. Các đoàn lớn như: Thanh Minh-Thanh Nga, Thủ Đô, Kim Chưởng, Dạ Lý Hương... mỗi năm dựng mấy chục vở nên cần rất nhiều kịch bản, thế nên các đoàn này thường có 4 soạn giả thường trực. Chẳng hạn năm 1967 nếu chỉ tính các đoàn diễn ở Sài Gòn là gần 100 vở còn tính chung các đoàn lưu diễn xa là 130 vở. Trong năm này, Thanh Minh-Thanh Nga dựng tới 27 vở
Trong quá trình soạn giả tìm khán giả thì chính họ phải tự “lột xác”. Có người thu hút khán giả bằng các vở diễn mang tính nghệ thuật nhưng có người lạm dụng tính bi lụy, éo le hay chọc cười. Sau năm 1954, cải lương “chiến tranh” (còn gọi là cải lương cắc bùm) bị dư luận tiến bộ lên án thì các soạn giả lại xoay sang đề tài xã hội. Soạn giả Thu An là người đầu tiên đưa thơ, múa, nhạc mới vào cải lương (giới cải lương gọi là thi-ca-vũ-nhạc-kịch). Thay đổi về hình thức đã dẫn đến sự thay đổi trong dàn nhạc, ngoài đàn cò, tranh, nguyệt... còn có thêm violon, trompet.
Thời kỳ đó ở Sài Gòn, chính quyền Ngô Đình Diệm kiểm duyệt rất gắt gao, các soạn giả buộc phải quay lại đề tài dã sử, phóng tác tiểu thuyết, phim nước ngoài để tránh rắc rối với hội đồng kiểm duyệt đồng thời thu hút khán giả vì những tích dã sử, phim đó nhiều người đã biết.
(Còn tiếp)