Gia đình 3 thế hệ sống trong căn nhà từ… chuồng lợn cũ

ANTĐ - Lấy chồng từ thuở đôi mươi, cái nghèo cái khó cứ bủa vây chị sau bao năm lặn lội làm lụng nơi đất khách quê người, ngay cả đến lúc trở lại quê cũ vẫn chẳng thoát được cái nghèo. Cả gia đình chị 3 thế hệ gồm vợ chồng, mấy đứa con cùng con dâu và đứa cháu nội phải sống ở chuồng lợn mấy năm trời...

Gia đình 3 thế hệ sống trong căn nhà từ… chuồng lợn cũ ảnh 1Nơi sinh sống của 3 thế hệ trong gia đình là chuồng lợn được cho mượn

Cả gia đình sống 3 thế hệ sống trong chiếc chuồng lợn

Người dân xóm 25, thôn Bầu Ốc Hạ (xã Cẩm Hà, TP Hội An, Quảng Nam) chẳng ai còn lạ gì chị Lê Thị Dạ Thảo, người phụ nữ năm nay đã xấp xỉ 45 tuổi. Ngày qua ngày, mọi người thấy chị hết làm đồng làm đất lại đi làm thuê làm mướn, rồi tất bật chăm người cha chồng đã ở tuổi gần đất xa trời, lo cho hai đứa con đang tuổi ăn tuổi học, lo cho cái mái nhà là cái chuồng lợn cũ được người họ hàng cho mượn để ở khỏi những mùa mưa dột lạnh ngắt người, cho những mùa bão mái không bay tốc, tường không đổ sập. Làm được những việc ấy với một người phụ nữ mà sức khỏe cũng không tốt quả là điều ít có.

Dẫn vào nhà chị là con đường đất chỉ vỏn vẹn vừa đủ một chiếc xe. Trước đây khu này là khu đồi hoang sơ toàn là mồ mả nhưng được người anh họ của chồng chị khai hoang để trở thành đất trồng trọt và nuôi lợn. Nói là nhà, nhưng thực ra đây là cái chuồng lợn của người anh họ bên chồng bỏ hoang mấy năm không dùng đến, nên khi chị cùng gia đình chuyển từ Gia Lai về không có chỗ ở, không có đất dựng nhà người anh thương tình cho mượn miếng đất ấy để nương náu qua ngày.

Cái chuồng lợn ấy cao chẳng quá đầu người, thế nên mỗi khi đi vào là người lớn phải cúi đầu đi lom khom. Để cải tiến chuồng lợn thành chỗ ở, chị đã phải đi nhặt nhạnh những tấm tôn cũ, những tấm bạt rách, những viên ngói rơi rớt người ta vứt đi mang về ghép lại thành tổ ấm. Cái chuồng lợn cũ có ba ngăn, được xây bằng gạch cao ngang đầu gối, chị cải tạo lại thành các “căn phòng” để ở. Thế nhưng cả gia đình ba thế hệ gồm vợ chồng chị, mấy đứa con cả con dâu với đứa cháu nội cũng chẳng đủ chỗ, chị lại cặm cụi đào lỗ chôn cột, là những gốc cây xin được, cột buộc lại những tấm bạt để nới rộng không gian sinh hoạt cho cả gia đình.

Căn nhà không có một vật dụng gì đáng giá ngoài mấy bộ quần áo, chén bát và số sách vở của mấy đứa con đi học. “Nói căn nhà chứ thật ra cái chuồng lợn, tôi cũng không sửa sang chi mấy, làm lại cái nền cho bằng, quét rửa sạch sẽ hết phân lợn, rồi quây tôn xung quanh, cửa ra vào chỉ đủ một người bước vào, không đủ để có thế dắt một chiếc xe đạp chui lọt.

Ngoài diện tích đặt cái giường và cái tủ, mọi sinh hoạt nấu ăn, vệ sinh đều phải ở ngoài cả!”, chị cười gượng gạo tâm sự. Thấy chúng tôi muốn vào nhà, chị ngăn lại bảo căn nhà ấy tối tăm, ẩm thấp lắm, mà mùa nắng nóng như thế này cái mùi lưu cữu ấy cứ sộc lên, không thể nào chịu đựng nổi, tốt nhất cứ ngồi bên ngoài dưới bóng cây mà trò chuyện còn hay. Chị bảo, mùa nắng nóng là như thế, mái tôn ẩm thấp nóng hơn cái lò bát quái, mấy đứa trẻ chị không chịu được phát ban khắp người, cả ngày cả đêm chị lại thức để quạt cho chúng ngủ.

Rồi còn cái mùi phân lợn mới thực sự kinh khủng, dù đã không còn nuôi lợn nữa, nhưng cái mùi còn lại ấy vẫn cứ vương vấn hằng ngày, đến nỗi cả nhà chẳng ai còn ngửi được cái mùi nào khác nữa. Mùa mưa đến thì lại là một cuộc “chiến đấu” khác của chị. Bốn bề là nước tạt, mưa hắt, là gió lùa phần phật, cả đêm chị lại phải dùng thau tát nước, có khi nước ngập lên đến mắt cá chân vì đây vốn là cái rốn nước của khu này. Sau nhà lại có cái ao nhỏ, mưa lớn lại tràn vào nhà khiến cả nhà như sống giữa đảo. Chị lại đi xin bao ni lông khắp nơi để bò lên mái nhà, phủ bao ni lông chống mưa với hy vọng đỡ được chừng nào hay chừng ấy. Chị bảo, mấy mùa như thế, giờ quen rồi!

Chị bị thấp khớp, đau lắm nhưng vẫn cười bảo “quen rồi”, mà không quen cũng chẳng được, bởi tiền đâu đi chữa, tiền đâu mua thuốc, lại thêm cả cái bệnh ù tai nữa cũng làm chị khốn khổ. Khổ thế, khó thế, bệnh thế mà chị vẫn cười. Mà như chị bảo thì chị phải cười chứ, cười cho cuộc sống bớt nặng nề hơn, cho cả gia đình còn thấy mà cười theo, bởi dù cuộc sống có bi đát đến cỡ nào đi nữa, vẫn còn có hy vọng, còn có điều đáng để mơ ước.

Gia đình 3 thế hệ sống trong căn nhà từ… chuồng lợn cũ ảnh 2

Người phụ nữ của nghị lực

Có người bảo sẽ là nói quá nếu không kể về gia đình chị, về người chồng của chị là anh Nguyễn Văn Điệp. Gọi là anh nhưng đến giờ anh đã ở cái tuổi xấp xỉ thất thập. Chuyện tình của chị và anh cũng rất lạ, bởi người đàn ông đã đến tuổi xế chiều chẳng hiểu sao lại phải lòng cô thôn nữ kém mình tới 25 tuổi. Sự kiện ấy khiến dân tình cả địa phương này không khỏi đi từ bất ngờ này tới bất ngờ khác. Anh Điệp như cách chị gọi vốn cũng là một người lỡ dở trong chuyện tình duyên. Đã nghèo khó, lại không được học hành nhiều nên cơm áo gạo tiền đã khiến anh không có được công việc làm như ý. Ngày anh tỏ tình với chị, một cô thôn nữ còn khá trẻ cách đây gần 20 năm.

Chị kể, sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo ở vùng đồng nước phố hội này, nhà lại đông anh em nên từ nhỏ chị đã phải đi làm kiếm tiền phụ giúp cha mẹ. Rồi lớn lên, chị gặp anh. Thấy cảnh người đàn ông ở cái tuổi xế chiều vẫn ngày ngày lẻ bóng đi về, chị thương rồi đem lòng yêu từ lúc nào không biết, có lẽ đó là bởi sự đồng cảm về cảnh ngộ, sự thấu hiểu về nghĩa về tình. Lúc chị đồng ý lấy anh, mọi người xung quanh ai cũng bảo chị “khùng”, bởi anh là một nông dân “nghèo rách mồng tơi”, lại phải nuôi mẹ già và cũng đã ở cái tuổi lên ông lên bà rồi, trong khi chị còn quá trẻ, còn có cả một tuổi xuân phơi phới phía trước, và có cả sự lựa chọn những người khác vững chắc hơn.

Thế nhưng, bằng tình yêu của mình, chị đã bất chấp tất cả để cùng anh xây dựng tổ ấm. Rồi hạnh phúc ngập tràn khi gia đình nhỏ của chị dần có thêm những tiếng khóc của trẻ thơ. Một đứa, hai đứa rồi năm đứa. “Đứa đầu bây giờ đã có vợ có con, vợ và con hắn bây giờ sống với tôi ở đây, còn hắn đi phụ hồ ở Tây nguyên đó. Lâu lâu nó mới về. Đứa út thì mới học lớp 6 thôi”, chị nói bằng cái giọng chân chất rất dân dã của người đàn bà nông thôn. Chị bảo dẫu con cái là của trời cho, nhưng chắc tại chị sinh nhiều con nên mới nghèo thế, chứ cứ sinh hai đứa như nhà người ta thì có lẽ cũng không đến nỗi nào.

Cuộc đời nghèo bám riết lấy anh chị hai chục năm trời từ khi về với nhau, ấy vậy mà chưa lần nào hai người cãi nhau hay giận dỗi gì. Chị bảo, anh nhiều tuổi rồi, nên tâm lý và rất yêu thương vợ con, chị chẳng có lý do gì để buồn về anh cả. Nghèo thì cũng nhiều người nghèo, nhưng chị lại giàu vì cái tình cái nghĩa, vì một gia đình hạnh phúc đúng nghĩa với sự “tát biển đông” của cả hai vợ chồng mấy chục năm qua.

Nhiều lúc nhìn gia đình người áo quần xúng xính, ông chồng thì nhậu nhẹt chơi bời hay gì đó, chị lại nghĩ về chồng mình mà cười hạnh phúc, vì chưa một lần nào ngoài giờ làm anh đi nhậu, có cái gì người ta cho anh cũng mang về cho vợ cho con, đi đám tiệc cũng mang về cái ngon nhất mà không dám ăn. Chị bảo, được người chồng như thế, ai còn ao ước gì.

Dẫu vậy, hoàn cảnh chị cũng lắm lận đận, sau một thời gian ở quê nhà, chị không có gì ngoài hai bàn tay trắng. Thấy người ta bảo đất Tây Nguyên dễ làm ăn, chị đưa cả gia đình lên đó. Nhưng không vốn, không được học hành đàng hoàng, không tấc đất trong tay nên bao năm trời làm thuê làm mướn cũng chỉ đủ để nuôi sống mấy con người đông đúc trong gia đình. Sống đất mới không được, chị lại dắt díu cả gia đình về quê cũ Hội An, khi ấy gia đình chị đã có thêm thành viên mới là con dâu và cháu nội, cũng đều “nghèo hơn chị Dậu”.

Khi xuống đây cả gia đình không có tài sản gì quý giá ngoài đôi bông tai đáng giá vài phân vàng của ba mẹ chị để lại, cũng đã bán đi để dành lo thuốc thang cho căn bệnh đau dạ dày của anh. Người anh họ bên chồng thấy tội mới cho gia đình chị mượn tạm cái chuồng lợn rồi tận dụng mấy tấm tôn cũ nới thêm thành căn phòng cho cả gia đình ở để chăm sóc vài con lợn và vườn cây.

Thế là ngày ngày ngoài việc trông coi vườn cây cho người anh họ thì công việc chính của chị vẫn là ai kêu gì làm đó. Cả gia đình chỉ phụ thuộc vào 2 triệu của anh với công việc bảo vệ cho trường mầm non gần nhà. Đó đã là sự ưu ái của địa phương trước hoàn cảnh khốn khó của gia đình chị rồi.

 Trao đổi với chúng tôi, chính quyền xã Cẩm Hà cũng cho biết cái khó của mình, ấy là việc chị Thảo mới xin cấp lại hộ khẩu tại địa phương. Xã vẫn còn nghèo, lại không có quỹ đất dành cho các hộ gia đình như chị. Mà nếu có cấp đất cho chị thì cũng chẳng có tiền mà xây nhà. Xã đã xét gia đình chị thuộc diện hộ nghèo để được hỗ trợ hàng tháng, và đã ưu tiên nhận chồng chị vào làm bảo vệ tại một ngôi trường trên địa bàn. Ấy là những việc xã có thể làm được, còn hơn, thì phải lên cấp trên nữa.

Trên căn chòi nhỏ vừa là nơi nằm ngủ được che ngang với chuồng lợn đồng thời là bếp của cả gia đình 5 người cùng với đứa con dâu đầu và cháu nội, tối tối vẫn vang lên tiếng bi bô học bài của đứa con út.

Chị bảo, chỉ hi vọng đứa con út sẽ được học hành đàng hoàng, chứ như mấy đứa đầu vì khó khăn quá nên đã nghỉ học từ lâu để đi phụ hồ, đi làm cà phê thuê tự nuôi sống bản thân. Cũng tội nghiệp! Kể về mình, vậy mà chẳng thấy chị than thở gì, chị bảo có than thở cũng chẳng ích gì, vấn đề là mình biết chấp nhận và sống. Bây giờ chị chỉ mong đứa con út học hành tốt hơn, để có một tương lai sáng hơn. Tương lai của đứa con út ấy, cũng là tương lai của chị, tương lai của cả gia đình, dẫu sống ở chuồng lợn cũng chẳng sá gì.