Tự chủ, đổi mới giáo dục để đại học là nơi sáng tạo ra tri thức

ANTD.VN - Với 23 trường đại học trong cả nước đang thực hiện quyền tự chủ từng phần, nhiều người lo lắng, cứ tự chủ là kèm theo tăng học phí, trong khi đó, những cam kết về chất lượng đào tạo, việc làm cho đầu ra lại thiếu cơ sở để đánh giá.

Tự chủ, đổi mới giáo dục để đại học là nơi sáng tạo ra tri thức ảnh 1

Sinh viên quốc tế nghiên cứu, học tập tại Trường ĐH Tôn Đức Thắng, TP.HCM

Lo học phí leo thang khi trường tự chủ tài chính

Năm học mới, sinh viên đại học thêm nỗi lo là học phí sẽ lại tăng mạnh theo tiến trình tự chủ tài chính. Học phí tăng đồng nghĩa với chất lượng đào tạo; tỷ lệ việc làm; đánh giá sinh viên đều tăng, cho thấy đây là hướng đi đúng đắn. Nhưng bên cạnh đó, không ít trường được trao tự chủ tài chính có mức học phí quá cao, khiến cho nhiều sinh viên ngần ngại theo học vì không đủ khả năng đáp ứng yêu cầu về mặt tài chính. 

Hiện nay, đa phần các trường đại học theo mô hình tự chủ sẽ có học phí thấp nhất khoảng 15 triệu đồng/năm học trở lên và hàng năm đều có điều chỉnh mức thu học phí theo hướng tăng từ 5 đến 10% để đảm bảo thu bù chi. Với các gia đình nghèo, đây là nỗi lo vì một sinh viên học trường đại học tự chủ về tài chính mỗi năm phải đóng hơn 50 triệu đồng học phí/năm. Nếu tính cả ăn uống, đi lại, rồi nhiều khoản tiền phát sinh khác thì tính sơ sơ cũng phải mất cả trăm triệu mỗi năm. Đây là số tiền lớn, đặc biệt với các gia đình nông thôn dù là có được vay theo chế độ chính sách học phí.

Việc tạo nguồn tài chính cho giáo dục đại học còn hạn hẹp, chưa được đa dạng hóa. Các trường đại học chưa chủ động về nguồn thu, chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách Nhà nước và từ thu học phí, trong khi đó, nguồn thu từ hoạt động dịch vụ, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ còn hạn chế. Do vậy, Bộ Tài chính đề nghị Bộ Giáo dục - Đào tạo và trường đại học cần nghiên cứu từng bước giải quyết các vấn đề bất cập về học phí trong trường đại học. Đảm bảo lợi ích của các cơ sở đại học nhưng cần phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.

Đánh giá về vấn đề tự chủ tài chính hiện nay, đại diện Bộ Tài chính cho rằng, việc tạo nguồn tài chính cho giáo dục đại học còn hạn hẹp, chưa được đa dạng hóa. Các trường đại học chưa chủ động về nguồn thu, chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách Nhà nước và từ thu học phí, trong khi đó, nguồn thu từ hoạt động dịch vụ, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ còn hạn chế. Do vậy, Bộ Tài chính đề nghị Bộ Giáo dục - Đào tạo và trường đại học cần nghiên cứu từng bước giải quyết các vấn đề bất cập về học phí trong trường đại học. Đảm bảo lợi ích của các cơ sở đại học nhưng cần phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.

Bộ Tài chính cho rằng, các trường đại học cần tạo nguồn thu từ hoạt động dịch vụ, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ để tăng nguồn tài chính cho hoạt động của nhà trường. Bên cạnh các chính sách ưu đãi của nhà nước về tín dụng, về đầu tư, các chính sách xã hội hóa, các trường đại học cần tự chủ trong việc huy động các nguồn lực tài chính từ xã hội, liên doanh liên kết với các tổ chức, cá nhân theo đúng quy định của pháp luật, hướng tới mục tiêu đa dạng và lành mạnh hóa nguồn tài chính cho giáo dục đại học

Thực tế, không ít trường xoay xở với bài toán tự chủ tài chính và đã tìm được hướng đi. Chia sẻ về cách thực hiện tự chủ của trường Đại học Kinh tế TP.HCM, ông Nguyễn Trọng Hoài, Phó Hiệu trưởng trường này cho biết, thành công của các trường nằm trong top 50 của thế giới là nhờ vào khả năng tiếp cận tài chính từ thị trường. Việc thu hút nguồn tài chính là quan trọng, một số biện pháp được áp dụng như đi vay không hoàn lại hoặc đi vay không điều kiện phục vụ đào tạo nhân lực cho các chủ nguồn tài chính. Tài chính mạnh thì đầu tư lớn, từ đó các trường đại học được phát triển toàn diện, đủ sức cạnh tranh trên đấu trường xếp hạng quốc tế.

Hiện nguồn thu của các trường đại học ở Việt Nam chủ yếu vẫn là từ học phí và ngân sách công. Theo điều tra, 70% tỷ lệ nguồn thu của các trường đến từ học phí và một số loại phí của sinh viên. Như vậy rất rủi ro, đừng quá phụ thuộc vào tiền do lượng sinh viên đóng. “Cần đặt ra câu hỏi sinh viên có thể chi trả ở mức nào thay vì nhà trường sẽ cho đóng ở mức nào? - ông Nguyễn Trọng Hoài nhận định.

Can thiệp sâu của cơ quan chủ quản dẫn đến tự chủ thấp

Theo ông Đinh Xuân Khoa, trường Đại học Vinh, nói đến tự chủ là nói đến mối quan hệ giữa Nhà nước và cơ sở giáo dục đại học, tự chủ cao đồng nghĩa với mức độ can thiệp thấp của Nhà nước vào các công việc của cơ sở giáo dục đại học. 

Trên thực tế, các trường đại học Việt Nam có mức độ tự chủ thấp, một trong những nguyên nhân chính là sự can thiệp sâu của Nhà nước đối với giáo dục đại học: phân bổ ngân sách; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất; quyết định mở/đóng ngành đào tạo; khung chương trình hay mức học phí và tổ chức nhân sự. 

Ông Trần Đức Viên, Học viện Nông nghiệp Việt Nam cho rằng, một trong những thể chế và thói quen cũ tạo lực cản rất lớn đối với tự chủ của trường đại học là cơ chế “bộ chủ quản” và “trường trực thuộc”. Việc vẫn tồn tại cơ chế “bộ chủ quản” kiểu cũ (can thiệp sâu vào các hoạt động của nhà trường) và vẫn phải ”xin phép” cơ quan quản lý chuyên ngành về công tác chuyên môn (giảng dạy, tuyển sinh, mở ngành, liên kết đào tạo…), nghĩa là Nhà nước vẫn thừa nhận sự tồn tại song hành, mà thực chất là đóng vai trò quyết định, của cơ chế kiểu tập quyền.

Với Việt Nam, tự chủ đại học là một động lực, là chìa khóa thành công của quá trình đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo. Vấn đề còn lại là hình thành khung pháp lý, thiết kế mối quan hệ giữa Nhà nước và nhà trường, xây dựng và thực hành các quy chế quản trị nội bộ của trường đại học, thiết kế quy tắc giám sát của Nhà nước và của xã hội, trách nhiệm giải trình hai chiều... - đó là các yếu tố quyết định sự thành bại của quá trình tự chủ đại học.

Ông Dilip Parajuli, chuyên gia của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho rằng, nguyên nhân chính của việc đại học Việt Nam xếp thứ hạng thấp là do các chính sách đang kìm hãm sự bùng nổ của các trường đại học. Nên cởi bỏ “chiếc áo rập khuôn” trong việc quản lý về mặt tài chính và hành chính trong các trường phát triển. “Việc tiếp cận và đánh giá này thì không nên có trong luật mà chỉ là một cách để các trường cần làm để vừa nâng cao vừa làm vấn đề hướng đi phát triển cho chính các trường. Đồng thời, Chính phủ chỉ mang tính định hướng trong việc tự chủ đại học, còn lại các trường sẽ tự chọn hướng đi cho mình” - ông Dilip Parajuli nhấn mạnh.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Tự chủ chưa đúng thông lệ quốc tế vì vẫn muốn cơ chế bao cấp
Tự chủ, đổi mới giáo dục để đại học là nơi sáng tạo ra tri thức ảnh 4

“Việt Nam đã nói đến tự chủ đại học từ khi thành lập Đại học Quốc gia, nhưng đến năm 2014, qua các cuộc cọ sát rất mạnh mẽ, chúng ta mới có 23 trường tự chủ theo Nghị định 77. Tuy nhiên, mới là tự chủ một phần, chưa đúng với thông lệ quốc tế. Nguyên nhân khiến tự chủ đại học ở Việt Nam chưa đúng thông lệ quốc tế xuất phát từ cơ quan quản lý Nhà nước, từ chính các trường đại học vẫn muốn tiếp tục cơ chế bao cấp và một phần từ người học và xã hội.

Dù còn khó khăn nhưng hầu như các trường đều mong luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học được ban hành thật sớm để chính thức hóa việc này. Một trong những băn khoăn lớn nhất hiện nay là cho tự chủ, các trường cứ thế tăng học phí, ảnh hưởng đến quyền lợi của người học cũng như phần tài sản, đất đai… của trường đại học sẽ bị thao túng. Tự chủ tài chính, chúng ta một mặt có cơ chế học bổng dành cho sinh viên diện chính sách và con nhà nghèo. Mặt khác, tự chủ không có nghĩa là Nhà nước không cấp ngân sách nữa mà dùng kinh phí từ ngân sách để đặt hàng đào tạo. Tương tự, về đảm bảo tài sản của trường, chúng ta có hội đồng trường gắn liền với trách nhiệm giải trình, công khai minh bạch.

Cần hiểu cho đúng về tự chủ đại học. Trường đại học có nhiều sứ mệnh, một trong số đó là sáng tạo ra tri thức, nên trường đại học cần tự chủ về chuyên môn, từ đó khơi dậy sáng tạo cho từng thành viên trong nhà trường. Đó là tự chủ căn bản nhất. Để có quyền tự chủ đó, trường đại học phải được tự quản về tổ chức và tự chủ về tài chính. Tự chủ tài chính phải hiểu là tự chủ về nguồn thu và nguồn chi. Thu có nhiều phần: từ học phí, khoa học công nghệ, sản xuất kinh doanh và quan trọng là thu từ tài trợ của doanh nghiệp, cộng đồng; đặc biệt từ ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay, các trường đại học chưa được tự chủ chi cái này, tiền thậm chí không phải của nhà nước nhưng muốn làm cái gì đều phải xin phép”.

GS.TS Nguyễn Hữu Đức (Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội): Kết quả xếp hạng của các đại học Việt Nam rất thấp
Tự chủ, đổi mới giáo dục để đại học là nơi sáng tạo ra tri thức ảnh 5

“Tiếp cận xếp hạng hệ thống (bảng xếp hạng U21 của Hiệp hội các trường đại học Universitas và QS) của giáo dục Việt Nam chưa lọt top 50 thế giới. Còn theo bảng xếp hạng QS, năm 2018, Việt Nam lần đầu tiên đã có 2 trường đại học quốc gia lọt vào top 1000. Trong khu vực châu Á, Việt Nam có 5 cái tên: Đại học Quốc gia Hà Nội (139); Đại học Quốc gia TP.HCM (142); Đại học Bách khoa Hà Nội (291-300); Đại học Cần Thơ (301-350); Đại học Huế (351-400). 

Kết quả xếp hạng của các đại học Việt Nam như vậy là rất thấp. Một trong những nguyên nhân chính là vì mô hình và cơ chế vận hành của các trường đại học Việt Nam chưa được đổi mới, quan tâm đúng mức trong việc đáp ứng cơ chế thị trường và yêu cầu của các bên liên quan. Do vậy, để sự phát triển giáo dục đại học có tính bền vững, cần xây dựng theo hướng chuẩn hóa, xác định chỉ tiêu phát triển theo hướng hội nhập và được đánh giá, đối sánh với các quốc gia trên thế giới. Trong bối cảnh thích ứng với cuộc cách mạng 4.0, đồng thời với việc nâng năng lực tài chính và năng lực tự chủ, hệ thống giáo dục đại học nước ta cần quan tâm đến năng lực chuyển đổi, năng lực đào tạo định hướng khởi nghiệp, năng lực nghiên cứu hàn lâm định hướng đổi mới sáng tạo, năng lực số hóa và đặc biệt là năng lực phục vụ cộng đồng”.

Đặng Thị Thanh Huyền (Học viện Quản lý Giáo dục): Giáo dục đại học vẫn chậm đổi mới do mức độ tự chủ thấp
Tự chủ, đổi mới giáo dục để đại học là nơi sáng tạo ra tri thức ảnh 6

“Mặc dù đổi mới giáo dục đại học được khởi động với Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 2-1-2005 của Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020, tuy nhiên, qua 13 năm qua, giáo dục đại học vẫn còn rất chậm đổi mới trong thực tiễn. Trong đó có thể coi vấn đề căn bản của giáo dục đại học hiện nay là: Chất lượng đào tạo đại học thấp, sinh viên tốt nghiệp rất yếu kém về năng lực nghiên cứu khoa học và năng lực nghề nghiệp trong thực tiễn. Đào tạo không gắn với thị trường lao động, nhu cầu xã hội. 

Nguyên nhân ở đây là môi trường tài chính với cơ chế chính sách lạc hậu, chưa phát huy tối đa tiềm năng của nhà trường trên cơ sở quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của nhà trường. Quản lý tài chính chưa công khai, minh bạch trong phân bổ và sử dụng ngân sách Nhà nước qua việc quy định tiêu chí phân bổ tài chính chưa cụ thể; Giám sát hoạt động chi tiêu ngân sách nhà nước đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập còn hạn chế. Việc phân bổ chi thường xuyên chưa gắn với  nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Các trường đại học công không có chiến lược tài chính gắn với mục tiêu đào tạo.

Về mức độ tự chủ trong quản lý tài chính, hầu hết các trường được giao tự chủ song mức tự chủ thấp do phải tuân thủ các quy định về nguồn thu học phí và cơ chế trả lương hiện hành. Bên cạnh đó, việc tự chủ của nhà trường không gắn hoặc ít có trách nhiệm giải trình và giám sát, đánh giá bên trong cũng như ngoài xã hội khiến cho việc thu hút các nguồn thu hợp lý bị hạn chế dẫn tới đầu tư giáo dục đại học chưa xứng tầm”.