- Cướp ngân hàng có thể phải lĩnh án tù chung thân
- Người nổi tiếng quảng cáo hàng giả, hàng nhái có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự
- Trường hợp nào được từ chối ra làm chứng khi bị tòa án triệu tập?
Luật sư trả lời:
Luật sư Hoàng Huy Được (Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư Hà Nội)
Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn. Quan hệ hôn nhân giữa nam và nữ được pháp luật bảo vệ và tôn trọng. Do đó, để quan hệ hôn nhân được coi là hợp pháp thì nam, nữ phải đáp ứng được các điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; Hai bên tự nguyện quyết định; Không thuộc các trường hợp cấm kết hôn; Phải đăng ký với cơ quan có thẩm quyền…
Như vậy, theo quy định nêu trên, việc đăng ký kết hôn là do hai bên nam nữ tự nguyện đăng ký, quyết định. Chỉ cần việc kết hôn không vi phạm những quy định nêu trên thì hai người nam nữ có thể tự mình quyết định đăng ký kết hôn. Việc cha mẹ cấm đoán sẽ không ảnh hưởng đến quyền được đăng ký kết hôn của con cái.
Nếu cha mẹ dùng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác để cố tình ngăn cản không cho con cái kết hôn thì đây là hành vi vi phạm pháp luật. Khi đó, tùy vào tính chất, mức độ của hành vi ngăn cấm, cha mẹ có thể bị xử phạt hành chính hoặc phải chịu trách nhiệm hình sự.
Cha mẹ cấm con kết hôn có thể bị phạt tù (Ảnh minh họa)
Theo quy định tại Điều 55 Nghị định 167/2013/NĐ-CP, người nào ngăn cấm người khác kết hôn tự nguyện, tiến bộ bằng các hành vi nêu trên thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000-300.000 đồng.
Nếu hành vi nêu trên đã bị xử phạt hành chính nhưng vẫn tiếp tục vi phạm thì có thể bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng - 3 năm theo quy định tại Điều 181 Bộ luật Hình sự 2015.