Có được tòa án chấp nhận cho ly hôn?

(ANTĐ) - Tôi và chồng tôi lấy nhau ở bên Đức năm 1991 (không đăng ký kết hôn nhưng có tổ chức đám hỏi) đã có với nhau 2 con chung. Năm 2003 cả gia đình tôi về nước, gia đình chồng có họp gia đình và thống nhất để lại cho vợ chồng tôi 70m2 tại phường Nghĩa Đô. Xin hỏi trường hợp vợ chồng tôi nộp đơn xin ly hôn, tòa án có thụ lý giải quyết không và diện tích 70m2 có được chia đều cho vợ và chồng không?

Có được tòa án chấp nhận cho ly hôn?

(ANTĐ) - Tôi và chồng tôi lấy nhau ở bên Đức năm 1991 (không đăng ký kết hôn nhưng có tổ chức đám hỏi) đã có với nhau 2 con chung. Năm 2003 cả gia đình tôi về nước, gia đình chồng có họp gia đình và thống nhất để lại cho vợ chồng tôi 70m2 tại phường Nghĩa Đô. Xin hỏi trường hợp vợ chồng tôi nộp đơn xin ly hôn, tòa án có thụ lý giải quyết không và diện tích 70m2 có được chia đều cho vợ và chồng không?

Nguyễn Thị Tuyến (Nghĩa Đô - HN)

Trả lời: Quy định tại điểm b, c, khoản 3-Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 9-6-2000 điều 11 của Luật Hôn nhân và Gia đình được thực hiện như sau:

b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3 tháng 1 năm 1987 đến ngày 1 tháng 1 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 1 tháng 1 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì tòa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 để giải quyết.

c) Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3-điều 17 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 để giải quyết.

Theo quy định tại khoản 1 điều 27-Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.

Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.

Theo quy định trên thì tòa án sẽ tuyên bố không công nhận anh chị là vợ chồng, còn diện tích 70m2 đất tại Nghĩa Đô nếu chị chứng minh được diện tích đất đó được gia đình nhà chồng cho cả vợ và chồng thì được chia đều cho cả hai.

LS. Hoàng Thị Nhàn -

(Văn phòng luật sư Phúc Thọ - Số 23 Hồ Đắc Di, phường Nam Đồng, quận Đống Đa, Hà Nội)