Chân dung 5 nhà khoa học nữ Việt Nam xuất sắc năm 2017 vừa được vinh danh

ANTD.VN - Giải thưởng nghiên cứu khoa học dành cho nữ giới L’Oreal – UNESCO Vì sự phát triển phụ nữ trong khoa học đã trao giải thưởng Nhà khoa hoc nữ xuất sắc năm 2017 và học bổng nghiên cứu khoa học cho các nhà nghiên cứu nữ tiềm năng của Việt Nam năm 2017 vào ngày 12-1-2018. Dưới đây là chân dung 5 nhà khoa học nữ Việt Nam được vinh danh.

NHÀ KHOA HỌC NỮ XUẤT SẮC NĂM 2017

(L’Oreal For Women in Science National Award)

PGS. TS. Nguyễn Thị Hoài

Trưởng khoa Dược

Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế

PGS. TS. Nguyễn Thị Hoài được ghi nhận vì tâm huyết tìm ra những sản phẩm ứng dụng làm thuốc từ nguồn dược liệu Y học dân tộc cổ truyền, nghiên cứu phát triển tìm kiếm thuốc mới trong định hướng phát triển sản phẩm giảm cân, sản phẩm hỗ trợ điều trị ung thư,bệnh suy giảm trí nhớ ở người già.

PGS. TS. Nguyễn Thị Hoài (thứ 2 từ trái sang)

Một trong những nghiên cứu nổi bật của Phó Giáo sư - Tiến sĩ Hoài phải kể đến làNghiên cứu các cây thuốccủa đồng bào Pako VânKiều ở Miền Trung theohướng tác dụng chống oxyhoá, diệt tế bào ung thư. Nghiên cứu đã tìm ra được 2 cây dược liệu quý là bù dẻ tía và mán đỉa có tác dụng ức chế tế bào ung thư và chống oxy hóa tốt. Đây là những dược liệu quý của đồng bào dân tộc, được kiên trì thu thập, phân tích và sàng lọc để chứng minh thành phần khoa học cũng như đặc tính sinh học của cây thuốc, tạo nên tiền đề cho việc nghiên cứu các sản phẩm hỗ trợ trong điều trị ung thư và các bệnh liên quan đến oxy hóa.

PGS. TS. Nguyễn Thị Hoài nhận học hàm Phó Giáo sư khi mới 35 tuổi, đến nay đã chủ nhiệm 1 đề tài NAFOSTED, 1 đề tài cấp Bộ Y tế, 4 Đề tài cấp Bộ Giáo dục và Đào tạo, và nhiều đề tài cấp cơ sở khác, đặc biệt là tác giả và đồng tác giả của 20 bài báo quốc tế, 4 báo cáo tại Hội nghị quốc tế và 60 bài báo khoa học trong nước.

Trên cương vị nhà giáo, PGS. TS. Nguyễn Thị Hoài hiện là Trưởng khoa Dược đại học Y Dược Huế, đã hướng dẫn 5 Nghiên cứu sinh, 13 đề tài cao học, giảng dạy góp phần đào tạo nguồn nhân lực và truyền lửa cho thế hệ trẻ trong hơn 17 năm qua.

TS. Trần Thị Ngọc Dung

Trưởng phòng Công nghệ Thân Môi trường

Viện Công nghệ Môi trường, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

TS. Trần Thị Ngọc Dung được vinh danh vì những nghiên cứu mang tính ứng dụng về vật liệu nano.

TS. Trần Thị Ngọc Dung

Dung dịch nano bạc do TS. Trần Thị Ngọc Dung và nhóm nghiên cứu chế tạo có chất lượng cao, kích thước đều, ổn định, có thể bảo quản lâu dài, có hoạt tính khử khuẩn rất mạnh, và còn có thể điều khiển được kích thước hạt theo từng nhu cầu nhất định. Sản phẩm đã được nghiên cứu đánh giá hoạt tính kháng khuẩn trên hàng chục loại vi sinh vật gây bệnh trên người như: E.coli, Coliform, S.aureus, P. aeruginosa, Aci.baumannii, Streptococcus, Vibrio cholerae, Enterococcus feacalis, N. Gonorrhoeae, Candida albicans...

Nghiên cứu được thực hiện tại Viện Công nghệ môi trường và nhiều cơ sở y tế lớn trong nước như Học viện Quân Y, Bệnh viện TWQĐ 108, Viện bỏng Quốc gia, Viện các bệnh nhiệt đới và truyền nhiễm Quốc gia, Bệnh viện da liễu Trung ương, v.v... cho thấy sản phẩm được chế tạo có thể tiêu diệt tất cả các đối tượng vi sinh vật ở trên. Từ đó, sản phẩm được sản xuất với số lượng lớn và ứng dụng thành công nhiều lĩnh vực và sản phẩm khác nhau.

Các nghiên cứu của TS. Trần Thị Ngọc Dung mang tính ứng dụng lớn vào các sản phẩm thiết thân và có khả năng thương mại hóa các sản phẩm này trên thị trường. Trong đó có thể kể đến (i) Băng gạc điều trị vết thương, vết loét lâu lành, (ii) Bộ dụng cụ lọc dùng cho mục đích làm sạch nước quy mô gia đình, (iii) Băng bỉm vệ sinh cho trẻ em, người lớn, người già và (iv) Khẩu trang phòng chống ô nhiễm môi trường (v) Dung dịch vệ sinh phụ nữ.

Công nghệ gắn nano bạc lên vật liệu để sản xuất băng bỉm vệ sinh đã được Cục sở hữu trí tuệ cấp Bằng độc quyền Giải pháp Hữu ích. Công nghệ chế tạo vật liệu lọc nước ceramic xốp cố định nano bạc đã được cấp Bằng độc quyền Sáng chế đã gắn tên tuổi của Tiến sĩ với công nghệ tiên tiến này. Trong thời gian tới, Tiến sĩ Dung sẽ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ nano bạc trong lĩnh vực nông nghiệp như công nghệ bảo quản nông sản sau thu hoạch, xử lý bệnh hại trên cây trồng, vật nuôi.

Bên cạnh sáng chế và các sản phẩm ứng dụng, TS. Trần Thị Ngọc Dung còn là tác giả và đồng tác giả của 02 công trình khoa học Quốc tế, trên 20 công trình trong nước và tham gia các hội thảo khoa học, ứng dụng. Ngoài thành tích nghiên cứu khoa học, Tiến sĩ Dung còn luôn quan tâm đến bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ trong nghiên cứu khoa học thể hiện qua việc đề xuất với Lãnh đạo Viện Công nghệ môi trường giành thêm một khoản kinh phí hàng năm của viện cho một đề tài cơ sở do chị em phụ nữ trong viện làm chủ nhiệm và đã được lãnh đạo viện đồng ý và triển khai từ năm 2015. Với những thành tích của mình, TS. Trần Thị Ngọc Dung đã được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng Bằng Lao động sáng tạo năm 2015. Được Công đoàn Viên chức Việt Nam tặng bằng khen trong phong trào thi đua "Phụ nữ giỏi việc nước, đảm việc nhà" năm 2014. Được nhận bằng khen của Công đoàn Viên chức Việt Nam và Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2014, 2015, 2016, 2017 do đóng góp cho hoạt động công đoàn. Chị cũng liên tục là chiến sỹ thi đua của Viện Công nghệ môi trường trong các năm 2013,2014,2015,2016,2017.

Học bổng Nhà nghiên cứu khoa học nữ tài năng năm 2017

(L’Oreal FWIS National Fellowship)

TS. Trần Phương Thảo

Giảng viên Bộ môn Hóa dược

Trường Đại học Dược Hà Nội

Tiến sĩ Trần Phương Thảo được chọn trao học bổng Nhà nghiên cứu khoa học nữ tài năng 2017 L’Oreal – UNESCO For Women in Science với đề tàiNghiên cứu phát triển dẫn chất mới ức chếenzyme Glutaminyl cyclase hướng điều trị bệnh Alzheimer.

TS. Trần Phương Thảo

Bệnh Alzheimer là căn bệnh gây ra hội chứng suy giảm trí nhớ, diễn biến trầm trọng theo thời gian và ảnh hưởng trầm trọng đến toàn bộ các chức năng của não bộ. Hiện nay chưa có bằng chứng cụ thể về nguyên nhân chính của căn bệnh Alzheimer, nhưng các nghiên cứu khoa học gần đây cho rằng các mảng xơ (amyloid beta-Aβ) và các đám xơ rối (tau) lànhững nghi phạm chính. Đồng thời, enzym QC xúc tác cho quá trình đóng vòngnội phân tử các glutaminyl đầu gắn với Nito thành acid pyroglutamic góp phần tạo nên các xơ và đám xơ rối nêu trên. Chính vì thế, những nghiên cứu ức chế enzym QC sẽ ngăn cản quá trình tạo ra các acid pyroglutamic, giảm sự tạo thành các xơ và đám xơ rối, góp phần ngăn chặn nguy cơ gây ra bệnh Alzheimer.

Đề tài của TS. Trần Phương Thảo tên đầy đủ là Thiết kế, tổng hợp, thử tác dụng ức chế enzym Glutaminyl cyclase của dãy dẫn chất N-(5-methyl-1H-imidazol-1-yl)propyl N’-3-Methoxy-4- Aminoalkyloxyphenyl Thiourea mới, sẽ có nhiều ý nghĩa khoa học và thực tiễn vì ở Việt Nam, xu hướng chung cũng sẽ đối mặt với vấn nạn Alzheimer trong vài thập kỷ tới khi dân số Việt Nam bước sang giai đoạn nhiều người gia và có nhiều khả năng lão hóa do áp lực công việc, điều kiện sống. Đây là đề tài có nhiều điểm mới, có khả năng công bố trên các tạp chí chuyên ngành trong và ngoài nước.

Ngoài ra, TS. Trần Phương Thảođã công bố 12 bài báo đăng trên tạp chí SCI, là báo cáo viên tại 7 Hộithảo Quốc tế chuyên nghành (AIMEC 2015, TETW2014, PSK2013, …), và là đồngtác giả của 9 bài báo tạp chí quốc gia và quốc tế. TS. Thảo hiện chủ trì 01 đề tàicấp Nhà nước (NAFOSTED) và là thư ký khoa học, thành viên nghiên cứu chủ chốtcủa 02 đề tài cấp nhà nước khác.

TS. Hoàng Thị Đông Quỳ

Trưởng Bộ Môn Vật liệu Polymer và Composite

Khoa Khoa học và Công nghệ Vật liệu

Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

TS. Hoàng Thị Đông Quỳ được Hội đồng Khoa học thống nhất lựa chọn trao học bổng Nhà nghiên cứu khoa học nữ tài năng năm 2017 L’Oreal – UNESCO For Women in Science với đề tàiVật liệu Polymer Composite/Nanocomposite chống cháy trên nền polyurethane xốp sử dụng hợp chất chống cháy thân thiện môi trường photpho/photpho-nitơ.

TS. Hoàng Thị Đông Quỳ (đứng giữa)

Đề tài nghiên cứu của Tiến sĩ Quỳ mong muốn tổng hợp thành công vật liệu polymer nanocomposite có tính chất nhiệt cao và khả năng chống cháy tốt, nhằm ứng dụng trong lĩnh vực xây dựng và giao thông vận tải. Vật liệu này được tổng hợp trên nguồn nguyên liệu tái chế hoặc từ các polyol đi từ nguồn tự nhiên nhằm thay thế cho nguyên liệu truyền thống từ nguồn hóa dầu.

Chị và nhóm nghiên cứu đã sử dụng vật liệu nhựa đã qua sử dụng như phim chụp ảnh, và chai nước giải khát để xử lý và tái chế ra vật liệu mới. Vật liệu chống cháy được chế tạo trong khuôn khổ đề tài này nếu được sản xuất trên quy mô công nghiệp để trở thành một loại vật liệu được sử dụng rộng rãi trong các công trình xây dựng, nhất là trong các thiết bị nội thất, sẽ giảm thiểu đáng kể những tổn thất do các vụ cháy, nổ gây ra. Việc tận dụng nguồn nguyên liệu PET phế thải để tổng hợp vật liệu polymer nanocomposite trên nền polyuretan xốp (RPUf) là cách nhằm bảo vệ môi trường, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, có ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn cao.

TS. Hoàng Thị Đông Quỳ là nhà nghiên cứu khoa học nữ có quá trình nghiên cứu khoa học và đóng góp cho sự phát triển của ngành Khoa học Vật liệu tại Việt Nam thể hiện qua số lượng bài báo trên các tạp chí quốc tế ISI của chuyên ngành nghiên cứu (15 bài), bài báo trên tạp chí quốc tế có chỉ số ISSN (1 bài), bài báo trong nước (10 bài) và quốc tế (12 bài). Ngoài ra, chị còn làm chủ nhiệm 2 đề tài cấp nhà nước (NAFOSTED) và 3 đề tài cấp Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

TS. Nguyễn Thị Lệ Thu

Khoa Công nghệ Vật liệu

Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

TS. Nguyễn Thị Lệ Thu được vinh danh với đề tài Nghiên cứu chế tạo vật liệu silicon thông minh có khả năng “nhớ hình” và “tự lành” ứng dụng làm vật liệu y sinh cấy ghép và màng phủ tự làm lành vết xước.

TS. Nguyễn Thị Lệ Thu

Lấy cảm hứng từ các vật liệu sinh học như xương, da, đề tài của Tiến sĩ Thu nghiên cứu chế tạo các loại vật liệu nhân tạo có khả năng “tự chữa lành” khi bị tổn thương, hư hại (như bị trầy xước).

Đề tài nghiên cứu này còn khá mới, hướng tới các ứng dụng cao, nhằm mục đích nghiên cứu tạo ra một loại vật liệu polyme trên cơ sở silicon (polydimethylsioxane) và polycaprolactone có đặc tính kết hợp là “nhớ hình” và “tự lành”. Polyme silicon và polycaprolactone đều là loại polyme không độc, tương thích sinh học tốt nên ứng dụng rộng rãi trong y sinh. Bên cạnh đó, polyme siloxane rất ổn định nhiệt, bền oxy hóa và độ thấm khí cao. Vì vậy, vật liệu silicone mới này nếu có thêm tính chất “tự lành” sẽ phù hợp cho các ứng dụng cao cấp như vật liệu trong các thiết bị y tế và cấy ghép y khoa. Bên cạnh đó, loại vật liệu silicone này còn có thể được dùng làm màng phủ thông minh tự làm lành vết trầy xước cho xe hơi hay điện thoại, vừa đem lại giá trị về độ bền và thẩm mỹ, vừa có khả năng làm sơn chống ăn mòn.

Để tạo ra khả năng “tự lành” cho vật liệu, các liên kết cộng hóa trị thuận nghịch Diels-Alder sẽ được dùng làm cầu nối mạng cho các mạch polydimethylsiloxane và polycaprolactone (hình minh họa).

TS. Nguyễn Thị Lệ Thu là tác giả chính và đồng tác giả của 32 bài báo đăng trên các Tạp chí quốc tế chuyên ngành và 18 bài đăng ở các Tạp chí trong nước có uy tín, là đồng tác giả của 02bằng sáng chế quốc tế. Tiến sĩ Thu đã chủ trì 02 đề tài NAFOSTED, và 02 đề tài cấp sở, cấp Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.