Cuộc sống ở bãi sông Hồng - Từ bóng tối đến văn minh

ANTD.VN - Thời Pháp thuộc, khu vực An Dương, Phúc Xá có tên gọi chung là bãi Cát (banc de sable). Về hành chính, Thống sứ Bắc Kỳ đã gộp cả bãi Giữa vào làng Phúc Xá và lúc thì nó thuộc huyện Gia Lâm, khi lại thuộc về nội thành. Bãi Cát cũng có một lý trưởng và quản tuần.

Trong cuốn “Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX” nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Uẩn viết: “Dân bãi từ nhiều nơi đến, trong đó phần đông là người gốc Đanh, Xuyên (huyện Phú Xuyên, Hà Tây cũ) chuyên làm nghề kéo xe tay, xe bò hoặc người  nghèo vùng chiêm trũng Hà Nam, Thái Bình. Trong phố cũng có người ra đây do thành phố quy hoạch khu Nam Tràng, Yên Ninh”. Hàng năm đều có người trong phố ra làm dân bãi Cát. Đó là dân tỉnh lẻ về Hà Nội sinh sống bằng các nghề thủ công, buôn bán lặt vặt nhưng trắng tay, không còn chỗ ở, họ ra đây tạm trú xoay xở kiếm nghề khác. Thực tế dân bãi Cát tứ chiếng quần tụ không theo tục lệ sinh hoạt của làng truyền thống Bắc Bộ, không có đình chùa riêng mà chỉ có vài cái miếu nặng về đồng bóng. An Dương thì có miếu Cô Trôi, Bách Linh. Phúc Xá thì có đền Lánh. 

Cuộc sống ở bãi sông Hồng - Từ bóng tối đến văn minh ảnh 2Thuyền bè san sát tại xóm chài bên sông Hồng (Ảnh tư liệu)

Để có thiên phóng sự “Tôi kéo xe” đăng dài kỳ trên “Hà Thành ngọ báo” năm 1932, nhà báo Tam Lang đã đóng vai một phu xe, ra ngoài bãi sống chung với họ nên phóng sự phản ánh rất chân thật với nhiều chi tiết rùng rợn. Về dân bãi Tam Lang viết: “Dân bãi Cát có nhiều tầng lớp, những tên anh chị sống bám vào dân nghèo, chứa cờ bạc, hành động côn đồ, cho vay nặng lãi. Còn đại đa số là tầng lớp dưới đáy xã hội làm ăn lam lũ với đủ các nghề lao động nặng nhọc  như: xe tay, xe  bò, khuân vác, vớt củi, bán quà rong… Kiếm ăn chật vật, vất vả,  lại hay cờ bạc, thuốc xái, kiếm được đồng nào qua tay hết đồng ấy, sống không có ngày  mai”. Những năm nước sông Hồng lên to, cuốn trôi cả nhà và nếu có ai chết thì anh em, hàng xóm hay chôn vụng trên bãi cát. Những trận nước sau đó lại san phẳng cả mồ mả. Họ đẻ con không có giấy khai sinh, người lớn tên tuổi không có giấy tờ chứng minh. Bệnh tật không có nơi chữa, những năm phát sinh dịch tả, đậu mùa dân chết hàng loạt. Thỉnh thoảng cảnh sát bao vây bắt  thuốc phiện lậu, bắt sòng bạc, khiến dân ở đây sống trong nơm nớp lo sợ. 

Cuộc sống ở bãi sông Hồng - Từ bóng tối đến văn minh ảnh 3Những hộ dân xóm thuyền bè bãi giữa sông Hồng (địa bàn phường Phúc Xá, Ba Đình) chuyển lên bờ sinh sống, chấm dứt cảnh sống tạm bợ trên mặt nước sông Hồng

Trong báo cáo của Thống sứ Bắc Kỳ năm 1912 gửi  Toàn quyền Đông Dương có đoạn: “Dân bãi Cát không khai tử vì sợ khai báo phiền hà tốn kém, không giấy tờ lý lịch nên trẻ con không được đi học, người lớn không thể xin được  việc làm ở các xí nghiệp”. Năm 1936, chính quyền thành phố quyết định di dời nghĩa trang chôn cất người chết vô thừa nhận ở bãi Nghĩa Dũng, vợ chồng nhà tư sản dân tộc Trịnh Văn Bô đã cúng 100 tiểu đại để đựng hài cốt. Khu vực bãi An Dương ngày nay, trước từng là nơi tá túc của những người hát  xẩm và có tới mấy chục gánh túm lại một chỗ, dân gọi là trại Xẩm. Ngày đi hát, tối họ về  lấy nước sông Hồng đỏ ngầu nấu ăn rồi chui vào trong lều ngủ vạ vật, sớm hôm sau lại kéo nhau ra bến ô tô, bến xe điện. Cuộc sống lam lũ, nhưng năm 1954 họ sẵn sàng tham gia vào đội văn nghệ tuyên truyền kêu gọi bà con không nghe theo lời xúi giục di cư vào Nam. Họ đã tự nghĩ ra lời để đặt cho các bài xẩm rồi cùng nhà thơ Thanh Tịnh về hát ở Nam Định, Thái Bình.  

Năm 1946, một sự kiện lớn diễn ra tại sân vận động Phúc Tân (sau 1954 gọi là  sân vận động Long Biên, nay sân này không còn), hàng nghìn người dân An Dương, Nghĩa Dũng, Phúc Xá đã nồng nhiệt chào đón Bác Hồ khi Người ra đây vận động bầu cử vì được giới thiệu ứng cử Quốc hội khóa I. Trong 9 năm bị tạm chiếm, bãi Cát và bãi Giữa đã hình thành đội tự vệ bí mật. Sau 60 ngày đêm chiến đấu chống quân Pháp, đầu năm 1947 Trung đoàn Thủ đô được lệnh rút khỏi Hà Nội, đơn vị tự vệ ở bãi Cát đã bí mật đưa các chiến sỹ qua sông Hồng an toàn. 

Sau khi tiếp quản Thủ đô, dù còn bao bộn bề, nhưng chính quyền thành phố đã làm nhiều việc khiến diện mạo An Dương, Nghĩa Dũng, Phúc Xá và Phúc Tân thay đổi. Chỉ trong vài năm, hàng loạt các khu tập thể một tầng, lợp ngói, sử dụng chung công trình vệ sinh, nước sạch được xây dựng đáp ứng nhu cầu cấp thiết chỗ ở cho bộ đội, cán bộ từ chiến khu về. Có thể kể ra như khu tập thể K95 (dành cho quân đội), khu tập thể An Dương (dành cho cán bộ, công nhân). Cùng với nhà tập thể, một số xí nghiệp chế biến gỗ cũng mọc lên, các xí nghiệp khai thác, thu mua lâm sản đã ra đời thu hút phần lớn lao động là dân bãi. Nhiều người trước 1954 sống vất vưởng thì nay trở thành công nhân viên Nhà nước. Họ được cũng cấp gạo, có lương, đau ốm được vào bệnh viện chữa trị không mất tiền, điều mà trước đó họ không dám mơ. Xen giữa những gian nhà lá ở khu Phúc Xá là trường Trung cấp Xây dựng, Trung cấp Tài chính khang trang. Chính quyền mới cũng tập hợp dân lao động tự do vào các hợp tác xã vận chuyển bằng xe bò, xích lô, ba gác… nên cuộc sống của họ dần ổn định. Các gia đình trồng dâu, ngô hay khoai lang được đưa vào hợp tác xã  nông nghiệp, vì thế  bờ dâu vẫn xanh ngắt bãi đê sông Hồng. 

Nhưng thay đổi lớn nhất đối với dân nghèo ngoài bãi là trước kia con cái sinh ra không có giấy khai sinh, bản thân họ cũng không có giấy tờ thì từ tháng 8-1958, thực hiện chủ trương của Ủy ban hành chính thành phố Hà Nội, Công an quận Hoàn Kiếm đã kê khai làm hộ tịch, chứng minh thư cho người từ 18 tuổi trở lên. Từ dân lao động tứ chiếng, sống đủ các nghề không ai quan tâm thì nay họ trở thành công dân Hà Nội.