Cuộc đối đầu lịch sử và những lời thú nhận

(ANTĐ) - Đúng như tiên đoán của Bác Hồ, Mỹ đã thua và phải cuốn cờ về nước cuối tháng 3-1973 sau khi không lực Hoa Kỳ thua bởi một Điện Biên Phủ trên không của quân và dân Thủ đô vào cuối tháng 12-1972. Đó là đòn trừng phạt đích đáng của nhân dân miền Bắc đối với không quân Mỹ, để “chia lửa” và động viên, cổ vũ mạnh mẽ cuộc chiến đấu của đồng bào chiến sỹ trên chiến trường miền Nam.

Cuộc đối đầu lịch sử và những lời thú nhận

(ANTĐ) - Đúng như tiên đoán của Bác Hồ, Mỹ đã thua và phải cuốn cờ về nước cuối tháng 3-1973 sau khi không lực Hoa Kỳ thua bởi một Điện Biên Phủ trên không của quân và dân Thủ đô vào cuối tháng 12-1972. Đó là đòn trừng phạt đích đáng của nhân dân miền Bắc đối với không quân Mỹ, để “chia lửa” và động viên, cổ vũ mạnh mẽ cuộc chiến đấu của đồng bào chiến sỹ trên chiến trường miền Nam.

Bộ đội tên lửa Việt Nam - khắc tinh của B52 Mỹ
Bộ đội tên lửa Việt Nam - khắc tinh của B52 Mỹ

Với những trận đánh của các lực lượng phòng không - không quân ta thiêu xác pháo đài bay B52 Mỹ trên bầu trời Hà Nội 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972, chiến dịch Linebacker II bị thảm bại hoàn toàn. Sau đây, là những lời thú nhận của người cầm đầu Nhà Trắng và những lời kể về nỗi khiếp sợ của những phi công Mỹ sừng sỏ đã liều lĩnh lao vào các phi vụ trong chiến dịch Linebacker II này.

Trước hết, Tổng thống R.Nixon đã thừa nhận ý đồ dùng sức mạnh quân sự để buộc chúng ta phải chấp nhận điều kiện thương lượng của Mỹ ở Hội nghị Paris. Nixon nói: “Ngày 12-12-1972 Mỹ đã hoãn cuộc thương lượng. Tôi đã quyết định như vậy vì Hà Nội buộc chúng ta phải có một bước đi làm thay đổi suy nghĩ của họ. Bằng hành động chúng ta thuyết phục Bắc Việt Nam rằng tốt hơn hết họ nên ký một Hiệp định theo các điều kiện của chúng ta hơn là tiếp tục cuộc chiến đấu.

Ngày 14-12-1972, tôi đã ra lệnh rải thủy lôi cảng Hải Phòng và cho máy bay trinh sát toàn miền Bắc Việt Nam để chuẩn bị ném bom B52 Hà Nội, Hải Phòng. Đó là một quyết định khó khăn nhất mà tôi thực hiện trong thời gian làm Tổng thống. Ngày 17-12-1972, tôi ra lệnh bắt đầu chiến dịch thả thủy lôi trên biển và 24 giờ sau, 129 máy bay B52 tiến hành ném bom miền Bắc Việt Nam. Trong 12 ngày đêm, chúng tôi ra lệnh cho không quân xuất kích 729 lần chiếc B52 và khoảng 4.000 lần chiếc tiêm kích bom, ném tất cả 20.000 tấn vào mục tiêu định sẵn.

Vậy chiến dịch Linebacker II của Mỹ đã diễn ra như thế nào? Dưới đây là lời kể của những phi công Mỹ trực tiếp lao vào canh bạc máu trên bầu trời Hà Nội:

Đại úy phi công Robert E.Wonfer lái B52 từ căn cứ Guam – Thái Bình Dương đến Hà Nội, sau này đã kể lại: “Chúng tôi bay trên đường bay quen thuộc của các phi công tiêm kích bom và luôn bị pháo phòng không Bắc Việt theo dõi, 67 chiếc B52 bay dọc theo sông Hồng lên phía Bắc rồi xuống Hà Nội thành một đội hình dài 70 dặm. Tên lửa SAM của Bắc Việt Nam phóng dữ dội vào dòng thác B52.

Từ lúc bắt đầu cắt bom đến khi vội thoát khỏi mục tiêu, tôi đếm được 36 quả tên lửa SAM phóng vào đường bay của chúng tôi. Bằng cách khéo léo nào đấy, những người điều khiển SAM đã làm các máy bay gây nhiễu điện tử của chúng tôi che mục tiêu B52 đã bị thất bại. Từng mỗi trận địa phòng không, Bắc Việt Nam phóng hàng loạt 6 tên lửa SAM và cho nổ bất cứ đoạn nào trong đội hình của B52.

Còn đại úy R.Scott bay trong tốp B52 sau trong đội hình này kể lại: “Tên lửa SAM bay từng đôi một, đôi sau cách đôi trước chỉ vài giây và đã nổ khá gần khi tôi bay qua. Tôi thấy rõ một quả cầu lửa bùng lên ở phía trước máy bay của tôi rồi lao nhanh xuống như một ngọn đuốc khổng lồ. Về sau tôi mới biết đó là chiếc B52G với mật danh là “Quyn3” bị bốc cháy. Thật đáng kinh hãi, 4 phi công đều bị bắt.

Vậy là trong đêm đầu của chiến dịch ném bom chiến lược đã có 7 chiếc máy bay tan xác, trong đó có 3 B52, gồm 2 B52G cất cánh từ Guam, 1 B52D cất cánh từ căn cứ Utapao - Thái Lan, một số phi công bị thiệt mạng, một số bị bắt, có tên bị mất tích vì tan xác theo máy bay. Gần một chục tù binh Mỹ hầu như đều có một câu trả lời đồng nhất, đó là: “Thật khủng khiếp - Thật bất ngờ - Sợ lắm - Vâng, rất sợ tên lửa Bắc Việt. Chúng tôi không ngờ hỏa lực phòng không của Hà Nội hoàn chỉnh, mạnh mẽ và chính xác đến thế! Còn thiếu tá Fernando sĩ quan điều khiển điện tử thì nói rằng: “Mọi sự tính toán của chúng tôi đều bị đảo lộn hết và hậu quả như các ông thấy hiện nay tôi đang là tù binh ở đây”.

Đại úy phi công H.Browse cũng phải bộc lộ: “Trước khi ấn nút nhảy dù để rời khỏi máy bay, tôi chỉ biết chiếc B52G của tôi đã bị lọt vào một khu vực tên lửa SAM đang phóng lên dày đặc, cùng với từng chùm đạn pháo cao xạ tầm cao vây quanh. Chiếc B52G rung lên mất thăng bằng và khói bốc bùng lên đầy khoang. Khi tôi vừa chạm chân xuống đất, thì đã thấy xung quanh nhiều người dân Việt Nam đang xông tới, nên dù có súng ngắn tôi cũng không dám dùng”. Về tội ác “rải thảm” bom B52 để hủy diệt dân cư, thì tên tù binh nào cũng trả lời như đã thuộc lòng: “Chúng tôi là người lính, chỉ biết tuân hành theo lệnh cấp trên.

Nhưng về tội ác, chúng tôi không dám chối cãi”. Mãi đến 5 năm sau, may mắn còn sống sót trong chiến dịch Linebacker II, đại úy phi công lái B52 Daren Kawsky đã viết lại trên Tạp chí Quân lực Mỹ số tháng 7-1977: “Ôi! Thật hãi hùng, tôi cứ nơm nớp lo sợ mỗi lần lên máy bay để bay đến Hà Nội. Cứ nghĩ đến hình ảnh đồng đội tôi ngồi gục đầu kinh hoàng trước cuộc họp báo ở Hà Nội ngày 19-12-1972 là khủng khiếp. Tôi thì may mắn sống sót, nhưng nhiều bạn đã tan xác cùng với máy bay trúng tên lửa Bắc Việt”.

Với thất bại nặng nề sau 6 ngày khởi sự chiến dịch “rải thảm” B52, ngày 25-12-1972 hãng AP - Mỹ đã phát tin và cảnh báo. “Đây là ngày thứ sáu liên tiếp của cuộc tấn công chớp nhoáng lớn nhất trong cuộc chiến tranh chống Việt Nam. Nó đã phải trả giá đắt nhất đối với Mỹ kể từ khi Mỹ bắt đầu tấn công bằng không quân ra miền Bắc Việt Nam tháng 9-1964. Thiệt hại của Mỹ là nặng nề nhất trong cuộc chiến tranh này”.

Với thất bại nối tiếp sau lễ Giáng sinh của không quân Mỹ buộc phải kết thúc chiến dịch này không kèn không trống. Ngày 29-12, Tổng thống Nixon đã phải hạ lệnh dừng hẳn cuộc ném bom này. Ngày 30-12-1972, Hãng AFP - Pháp đã bình luận: “Lực lượng không quân chiến lược của Mỹ đã vấp phải một hệ thống phòng không có hiệu lực đến như thế. Mỹ đã bị thiệt hại nhiều máy bay đến như thế, trong một thời gian ngắn như thế ở thành phố Hà Nội”.

Sau này, trong tác phẩm “Mỹ ở Việt Nam”, giáo sư Mỹ Guenter Levy đã khẳng định: “Chiến dịch Linebacker II là sự thất bại cả về chính trị, quân sự của Mỹ, vì nó không buộc được đối phương đầu hàng. Bắc Việt Nam thực tế đã kết thúc cuộc chiến tranh với một Hiệp định có lợi cho họ. Sự có mặt của lực lượng vũ trang Bắc Việt Nam tại Nam Việt Nam được hợp pháp hóa. Chỉ hơn hai năm sau, Bắc Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu của họ là giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước”.

Ca ngợi chiến thắng 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972 của quân và dân ta, ngài Romet Sandra - nguyên Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới đã nói: “Việt Nam đồng nghĩa với sự vinh quang, lòng dũng cảm và tinh thần quyết thắng. Mỗi lần đứng bên hố bom do đế quốc Mỹ rải xuống Việt Nam, chúng tôi nhận ra rằng nhân dân Việt Nam không phải hy sinh chỉ vì Việt Nam, mà vì cả chúng tôi.

Những người anh hùng ngã xuống trên mảnh đất Việt Nam là những liệt sỹ của thế giới, vì họ đấu tranh cho cả thế giới, cho cả nhân dân Mỹ. Chúng tôi thấy ở Việt Nam tương lai của cả loài người”. Nhà báo Pháp Jack-Moda khi biết Mỹ ném bom B52 vào Hà Nội, đã viết: “Nếu dân tộc Việt Nam vĩ đại mà đầu hàng thì cả loài người sẽ suy sụp. Loài người coi Việt Nam là lương tri của thời đại”.

Bùi Đình Nguyên