KỶ NIỆM 65 NĂM KHÓA ĐÀO TẠO I VÀ II TRƯỜNG CÔNG AN TRUNG ƯƠNG (1953-1954)

Tự hào truyền thống 2 khóa đầu tiên của trường Công an Trung ương

ANTD.VN - Ở cái tuổi U90, chúng tôi chỉ còn hơn 100 người là cựu học viên còn lại của 2 khóa đào tạo I (hơn 200 người) và khóa II (hơn 400 người) của Trường Công an Trung ương (1953-1954). Dù tuổi cao, sức khỏe yếu nhưng đa số anh chị em đều có nguyện vọng tha thiết họp mặt lần cuối kỷ niệm 65 năm tổ chức 2 khóa học. Thật vô cùng phấn khởi khi nguyện vọng đó đã thành hiện thực vào ngày 18-4-2018.

Bước vào khóa học, chúng tôi đến từ nhiều nguồn: Bộ Công an; Công an các tỉnh; nhân viên Cục Quân giới; học sinh một số trường phổ thông Hàn Thuyên, Lương Ngọc Quyến, Ngô Quyền tỉnh Thái Nguyên, một số thanh niên trong dân tộc ít người…; phạm vi từ Nam Trung bộ, Tây Nguyên, Tây Bắc và Việt Bắc. Học viên đến trường chủ yếu đi bộ, một số anh em đi bộ gần 2 tháng mới tới trạm đón tiếp rồi vào địa điểm chính của trường đặt ở vùng rừng già bên bờ sông Gâm thuộc bản Phai Công, xã Xuân Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang.

Tự hào truyền thống 2 khóa đầu tiên của trường Công an Trung ương ảnh 1Các cựu học viên 2 khóa đào tạo I và II của trường Công an Trung ương giai đoạn 1953-1954

Một thời gian khó 

Những học viên đến sớm tham gia lấy gỗ, tre, nứa, lá làm lán trại để ở, học và sinh hoạt. Cuộc sống vật chất lúc đó rất thiếu thốn, học viên lĩnh cơm bằng rổ rá, canh hay nước uống đựng bằng ống bương chặt vát. Thức ăn chủ yếu là rau rừng và số rau muống tự trồng. Mỗi tháng trường cố gắng lo cho vài bữa cơm tươi có thịt, có thời kỳ ăn toàn gạo không nở. Với tuổi trẻ, bữa chính coi như lót dạ, độn rau không no, tranh thủ lúc nghỉ bơi qua sông Gâm hoặc đi vào bản gần đó mua sắn, ngô, khoai, rau quả để bổ sung khẩu phần ăn cho đỡ đói. Ngày nghỉ, anh em phải phân công lần lượt thay nhau trèo đèo lội suối khoảng 5, 6km để lĩnh gạo về trường. Nước dùng để ăn uống, sinh hoạt, tắm giặt... toàn là nước đục lờ của dòng sông Gâm.

Ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, nhiều đêm rét lạnh, nằm nhà nứa, lá phen tre với chiếc chăn đơn mỏng manh hoặc chiếc chiếu đắp. Gian khổ như thế, nhưng khi tiếng kẻng báo thức, tất cả đều khẩn trương nghiêm túc thực hiện nội quy của trường, khắc phục khó khăn, nỗ lực học tập. Ban ngày nghe giảng, hầu như các buổi tối đều sinh hoạt, thảo luận ở tổ. Những anh chị em đều qua thực tế công tác thì trao đổi, truyền đạt kinh nghiệm cho nhau, nhất là cho chúng tôi, lứa học sinh mới 16, 17 tuổi từ bài giảng đến phẩm chất đạo đức, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong làm việc để sau này ra trường phục vụ tốt cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Mặt khác, chúng tôi là học sinh, lại được phân công giúp giảng dạy thêm văn hóa cho số đồng chí dân tộc ít người Mông, Êđê, Tày, Nùng...

Đời sống vật chất tuy thiếu thốn, song sinh hoạt tinh thần thì rất sôi nổi. Chúng tôi viết bích báo, hát ca, những vở kịch tự biên, nghe nói chuyện thời sự, nghe đài, thỉnh thoảng trường tổ chức chiếu phim. Hồi đó giáo viên chủ chốt gồm các đồng chí Đặng Công Tô Lân, Quách Quý Hợi... và một số đồng chí ở khóa I được chọn bổ sung làm giáo vụ hướng dẫn cho khóa II như đồng chí Phạm Minh, Lê Quang Thành, Đăng Cân, Tạ Văn Việt, Phan Tá, Trần Thế Vinh...

Nội dung học phần đầu chủ yếu là về chính trị, tình hình nhiệm vụ mới, chính sách mặt trận, chính sách tôn giáo dân tộc, đường lối quần chúng, chính sách cải cách ruộng đất… Theo chương trình khóa học thì thời gian là 18 tháng, nhưng tin vui thắng trận trên nhiều chiến trường, đặc biệt là chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ, buộc Chính phủ Pháp ký Hiệp định Genève, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Cách mạng chuyển giai đoạn mới. Đảng và chính phủ phải lo nhiều việc lớn mà trước tiên là tổ chức tiếp quản các vùng mới giải phóng, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội và Hải Phòng.

Nỗ lực sống, chiến đấu và cống hiến 

Học viên chia 2 đoàn: Đoàn chuẩn bị cho tiếp quản phải tập trung học 8 chính sách và 10 điều kỷ luật, giữ vững phẩm chất của người cán bộ cách mạng. Đoàn  thực hiện các đợt giảm tô và cải cách ruộng đất sau lại được điều về trường học tiếp với khóa đào tạo III để phục vụ đăng ký hộ khẩu tại Hà Nội. 

Đoàn về tiếp quản Thủ đô chủ yếu đóng bè mảng để vượt thác ghềnh, đi từ sông Gâm ra sông Lô vào sông Hồng, xuôi về Sơn Tây và được lãnh đạo Công an Hà Nội tổ chức phân công vào các vùng của Hà Nội. Ngày 4 và 5-10-1954, nhiều đồng chí tập trung ở đồn Thủy (nay là khu vực thuộc Bệnh viện 108), bố trí xen kẽ với một số cán bộ, chiến sĩ thuộc Ty Công an Hà Nội được phân công chiếm lĩnh trụ sở Công an Hà Nội. Quá trình này giáp mặt với cảnh binh Pháp và ngụy với số lượng đông hơn, trang bị vũ khí cũng hơn đòi hỏi các đồng chí phải luôn cảnh giác, mưu trí, dũng cảm. Lúc ấy, thực dân Pháp cùng tay sai đang ráo riết chống phá, không chịu trao ngay Hà Nội cho ta theo quy định của Hiệp định Genève. Trong khi đó, một bộ phận hơn 40 nữ học viên được điều sang ngành Bưu điện để tiếp quản Bưu điện Hà Nội...; vừa đảm bảo thông tin liên lạc bình thường, vừa phục vụ nắm tình hình và thực hiện các biện pháp nghiệp vụ của ngành. Một số đồng chí được phân công làm công tác trinh sát trên lĩnh vực an ninh.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ giải phóng miền Nam, cuộc kháng chiến chống Mỹ cần chi viện của miền Bắc, nhiều học viên của khóa I, II lại được điều về trường học tiếp để phục vụ cho các chiến trường B-C-K, trong đó có một số đồng chí được điều vào rất sớm, một số đồng chí đã anh dũng hy sinh.

Sau ngày miền Nam giải phóng, các đồng chí đều tiếp tục phát huy vai trò của mình, được giữ những trọng trách lãnh đạo trong Công an tỉnh, quận, huyện hoặc được điều sang công tác ở các cấp ủy Đảng hoặc chính quyền. Số còn lại ở Hà Nội và các tỉnh phía Bắc cũng được giao phụ trách các đơn vị đồn, trạm, trưởng phó phòng, quận, huyện. Nhiều đồng chí là Giám đốc, Phó Giám đốc các Sở, Ty Công an, đã đóng góp vào công cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đặc biệt góp phần tích cực trong chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” cuối năm 1972. Số học viên của 2 khóa được điều động về công tác ở Thủ đô Hà Nội có số lượng nhiều nhất, trong đó tiêu biểu các đồng chí Nguyễn Đình Thành - Giám đốc, Nguyễn Văn Tình - Phó Giám đốc.

Ở Bộ, các đồng chí được giao giữ các chức vụ Cục trưởng, Phó Cục trưởng các Vụ, Tổng cục. Một số đồng chí được giữ lại làm giáo viên như Nhà giáo nhân dân Phạm Minh - Hiệu trưởng trường Đại học Cảnh sát; cố Thiếu tướng Lê Quang Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học Công an; Thiếu tướng Nguyễn Như Hải - Tổng cục phó Tổng cục Tình báo.

Háo hức ngày gặp mặt

Những bài học đầu tiên do nhà trường giảng dạy, truyền thụ cho chúng tôi là những kiến thức cơ bản, là những nhân tố tác động trực tiếp cho sự phát triển phẩm chất đạo đức tốt đẹp, làm cơ sở để cho các học viên dù trong hoàn cảnh khó khăn nào cũng phấn đấu, rèn luyện tự học để vươn lên, tiếp cận những kinh nghiệm quý của các thế hệ đi trước để áp dụng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội qua các thời kỳ phát triển của cách mạng.

Nhiều đồng chí sau khi về nghỉ hưu vẫn phát huy truyền thống, cố gắng tích cực tham gia công tác ở địa phương được bầu vào cấp ủy phường, cụm dân cư, Trưởng ban Mặt trận Tổ quốc, Chi hội trưởng người cao tuổi... Ngày 5-10-2014, Hà Nội tổ chức Lễ kỷ niệm 60 năm Ngày giải phóng Thủ đô. Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung, khi ấy đang đảm nhiệm cương vị Giám đốc CATP Hà Nội đã trân trọng mời gần 70 anh chị em cựu học viên của 2 khóa đào tạo I và II trường Công an Trung ương được Bộ Công an điều từ chiến khu Việt Bắc về tham gia tiếp quản Hà Nội, làm chúng tôi vô cùng phấn khởi, tự hào: “Nhớ ngày ghềnh thác mảng nhào/ Sông Hồng uốn khúc tiến vào cửa ô/ Tháng Mười giải phóng Thủ đô/ Sáu mươi năm ấy bạc phơ mái đầu”.  

Đến ngày họp mặt này, không rõ có bao nhiêu đồng chí ở các tỉnh ra cũng như ở Hà Nội còn sức khỏe có thể thu xếp để cố gắng về dự, cùng nhau ôn lại những kỷ niệm của một thời không thể nào quên, hân hoan gặp lại nhau sau bao nhiêu năm xa cách, hay bày tỏ lòng biết ơn về sự quan tâm đầy tình nghĩa của các đồng chí lãnh đạo Bộ Công an, lãnh đạo các Tổng cục, Học viện An ninh nhân dân, các Vụ, Cục và lãnh đạo Công an các địa phương đã dành cho cựu học viên của 2 khóa trong những năm qua: “Gặp nhau lần cuối năm nay/ Dưới mái trường này để rồi mãi xa/ Gặp nhau tình nghĩa mặn mà/ Nhớ ơn Đảng, Bác, ơn ngành, ơn dân”. 

Đến ngày họp mặt này, không rõ có bao nhiêu đồng chí ở các tỉnh ra cũng như ở Hà Nội còn sức khỏe có thể thu xếp để cố gắng về dự, cùng nhau ôn lại những kỷ niệm của một thời không thể nào quên, hân hoan gặp lại nhau sau bao nhiêu năm xa cách, hay bày tỏ lòng biết ơn về sự quan tâm đầy tình nghĩa của các đồng chí lãnh đạo Bộ Công an, lãnh đạo các Tổng cục, Học viện An ninh nhân dân, các Vụ, Cục và lãnh đạo Công an các địa phương đã dành cho cựu học viên của 2 khóa trong những năm qua.