Gợi ý trả lời cuộc thi viết “Tìm hiểu Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam” (5)

ANTĐ -Hiến pháp năm 1992 đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của lịch sử lập hiến Việt Nam. Đây là bản Hiến pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì đổi mới toàn diện và sâu sắc về kinh tế, từng bước và vững chắc về chính trị.

Câu 1 (tiếp theo)

V. Hiến pháp năm 1992

1. Hoàn cảnh ra đời

Sau một thời gian phát huy hiệu lực, nhiều quy định của Hiến pháp năm 1980 tỏ ra không phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Tình hình thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải có một bản Hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã mở ra thời kì đổi mới ở nước ta. Đảng đã chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện những sai lầm, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tư duy độc lập, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân lao động, trên cơ sở đó để có những nhận thức mới đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và vạch ra những chủ trương, chính sách mới nhằm xây dựng một xã hội dân giàu nước mạnh, công bằng và văn minh.

Với tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, Quốc hội khoá 8, tại kỳ họp thứ 3 ngày 22/12/1988 đã ra Nghị quyết sửa đổi Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1980. Ngày 30/6/1989, kỳ họp thứ V Quốc hội khoá 8 ra Nghị quyết sửa đổi 7 Điều: 57, 116, 118, 122, 123, 125 để xác định thêm quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân của công dân và thành lập thêm thường trực Hội đồng nhân dân trong cơ cấu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã đồng thời củng cố thêm các mặt hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.

Trong kỳ họp này Quốc hội đã ra Nghị quyết thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn diện đáp ứng yêu cầu của tình hình kinh tế, xã hội mới, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Ủy ban sửa đổi Hiến pháp được thành lập bao gồm 28 người, do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công làm Chủ tịch. Ủy ban dự thảo Hiến pháp đã họp nhiều phiên để chỉnh lí, bổ sung và thông qua toàn văn dự thảo Hiến pháp sửa đổi.

Cuối năm 1991 đầu năm 1992, Bản dự thảo Hiến pháp lần ba đã được đưa ra trưng cầu ý kiến nhân dân. Trên cơ sở tổng hợp ý kiến đóng góp của nhân dân và ý kiến của Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng, Dự thảo Hiến pháp lần 4 đã hoàn thành và được trình lên Quốc hội khoá VIII, tại kỳ họp thứ XI xem xét.

Sau nhiều ngày thảo luận sôi nổi với những chỉnh lí và bổ sung nhất định, ngày 15 tháng 4 năm 1992 Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp. Việc soạn thảo và ban hành Hiến pháp năm 1992 là một quá trình thảo luận dân chủ và chắt lọc một cách nghiêm túc những ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân về tất cả các vấn đề từ quan điểm chung đến các vấn đề cụ thể. Bản Hiến pháp này là bản Hiến pháp của Việt Nam trong tiến trình đổi mới. Đúng như nhận xét của đồng chí Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười, nó là "sản phẩm trí tuệ của toàn dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước".([9])

2. Nội dung cơ bản

Hiến pháp năm 1992 gồm Lời nói đầu và 147 Điều chia làm 12 chương.

Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992 về cơ bản kế thừa nội dung Lời nói đầu của các Hiến pháp trước; ghi nhận những thành quả của cách mạng Việt Nam và xác định những nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới;

Chương I - Chế độ chính trị bao gồm 14 Điều (từ Điều 1 đến Điều 14)

Như Hiến pháp năm 1980, chương này đã xác định những nguyên tắc cơ bản của tổ chức quyền lực chính trị của nhà nước xã hội chủ nghĩa, bao gồm: quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức (Điều 2); nguyên tắc bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam (Điều 4); nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc (Điều 5); nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 6); nguyên tắc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp là phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín (Điều 7).

Tuy nhiên, khác với Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 không dùng thuật ngữ "Nhà nước chuyên chính vô sản" mà dùng thuật ngữ "Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân". Việc thay đổi thuật ngữ này không làm thay đổi bản chất của Nhà nước mà chỉ để làm rõ bản chất "của dân, do dân và vì dân" của Nhà nước ta, phù hợp với chính sách đoàn kết các dân tộc, các tầng lớp trong xã hội và phù hợp với xu thế của quốc tế và thời đại.

Chương II - Chế độ kinh tế, bao gồm 15 Điều (từ Điều 15 đến Điều 29).

Đây là chương được thay đổi một cách cơ bản nhất, thể hiện rõ nhất quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Theo Điều 15 Hiến pháp năm 1992, đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước ta là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới (Điều 16).

Như vậy, với Hiến pháp năm 1992, chúng ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể sang nền kinh tế hàng hoá thị trường với nhiều thành phần kinh tế: Nhà nước, tập thể, cá thể, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước.

Chương III - Văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, bao gồm 14 Điều (từ Điều 30 đến Điều 43).

Bên cạnh việc xác định đường lối bảo tồn và phát triển nền văn hoá Việt Nam: Dân tộc, hiện đại, nhân văn, kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân. Hiến pháp còn xác định "giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu" (Điều 35). Có thể nói rằng Hiến pháp năm 1992 đánh dấu một mốc quan trọng trong chính sách giáo dục và đào tạo của Nhà nước ta thể hiện đúng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người".

Chương IV - Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bao gồm 5 Điều (từ Điều 44 đến Điều 48).

Về cơ bản Chương này giống như Hiến pháp năm 1980 là xác định đường lối quốc phòng toàn dân. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1992 còn quy định bổ sung thêm về nhiệm vụ xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào nhân dân và làm nòng cốt cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội (Điều 47).

Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bao gồm 34 Điều (từ Điều 49 đến Điều 82).

So với Hiến pháp năm 1980, Chương này có nhiều điều hơn, nhiều quyền và nghĩa vụ được bổ sung và sửa đổi. Khắc phục thiếu sót của các Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 1992 lần đầu tiên quy định "các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng" (Điều 50). Ở nước ta, ngoài công dân Việt Nam và công dân nước ngoài đến làm việc và sinh sống ở Việt Nam còn có người không có quốc tịch. Như vậy, người không có quốc tịch cũng được Nhà nước ta tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Đặc biệt, lần đầu tiên quyền tự do kinh doanh của công dân được xác lập (Điều 57), trở thành một trong những chìa khoá quan trọng để mở cánh cửa tự do trong lĩnh vực hoạt động kinh tế của công dân, xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh. Công dân còn có quyền sở hữu "về tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác" (Điều 58).

Chương VI - Quốc hội, bao gồm 18 Điều (từ Điều 83 đến Điều 100).

Chương này xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Quốc hội. Về cơ bản nội dung kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1980 nhưng có bổ sung quyền hạn quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước, quyết định trưng cầu ý dân (Điều 84). Nhìn chung nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội thể hiện trên bốn lĩnh vực:

- Lập hiến và lập pháp;

- Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước;

- Xây dựng củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa;

- Thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.

Đề cao hơn nữa vai trò của đại biểu Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 quy định rõ: "Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước" (Điều 97). So với Hiến pháp năm 1980 nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội cũng như trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho đại biểu Quốc hội thực hiện nhiệm vụ của mình được quy định cụ thể hơn (xem Điều 97 và Điều 100).

Chương VII - Chủ tịch nước, bao gồm 8 Điều (từ Điều 101 đến Điều 108).

Với Hiến pháp năm 1992 chế định Chủ tịch nước cá nhân được quy định lại thành một chế định riêng biệt như Hiến pháp năm 1959.

Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 1992 quyền hạn không rộng như Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Thẩm quyền của Chủ tịch nước được quy định tại Điều 103 Hiến pháp năm 1992.

Chương VIII - Chính phủ, bao gồm 9 Điều (từ Điều 109 đến Điều 117).

Cũng như Hội đồng Chính phủ theo Hiến pháp năm 1959, Chính phủ theo Hiến pháp năm 1992 được quy định là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 1992 kế thừa Hiến pháp năm 1959 xây dựng theo quan điểm tập quyền "mềm" nghĩa là quyền lực nhà nước vẫn tập trung thống nhất nhưng cần phải có sự phân chia chức năng giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Vì vậy, Hiến pháp năm 1992 quy định: "Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Với quy định này Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Nhà nước chứ không phải của Quốc hội, có thể hoạt động một cách độc lập tương đối trong lĩnh vực hành chính nhà nước.

Chương IX  - Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, bao gồm 8 Điều (từ Điều 118 đến Điều 125).

Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, nước ta vẫn chia làm 3 cấp hành chính: Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; xã, phường và thị trấn (Điều 118). Ở tất cả các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Tính chất của Hội đồng nhân dân vẫn như cũ là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra nhưng Hiến pháp mới nhấn mạnh tính đại diện của Hội đồng nhân dân rõ hơn.

Chương X - Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, bao gồm 15 Điều (từ Điều 126 đến Điều 140).

Kế thừa Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 giữ nguyên quy định về nhiệm vụ của Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân.

Về tổ chức, hệ thống cơ quan Tòa án được quy định tại Điều 127 Hiến pháp năm 1992 và được cụ thể hoá bằng Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1992, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 28 tháng 12 năm 1993, Pháp lệnh về tổ chức Tòa án quân sự năm 1993, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 28 tháng 10 năm 1995.

Theo quy định của các văn bản pháp luật trên đây, ở nước ta có các Tòa án sau đây: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các Tòa án quân sự; các Tòa án khác do luật định.

Điểm mới căn bản của Hiến pháp năm 1992 là quy định chế độ thẩm phán bổ nhiệm. Dựa trên tinh thần của Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 đã quy định chỉ có Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước còn tất cả các thẩm phán của Tòa án nhân dân các cấp kể cả phó chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức (Điều 38).

Chương XI - Quốc kì, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh, bao gồm 5 Điều (từ Điều 141 đến Điều 145).

Chương này về cơ bản giữ nguyên các quy định của Hiến pháp năm 1980, chỉ bổ sung việc quy định về ngày Quốc khánh của nước ta là 2/9 - ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.

Chương XII - Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp bao gồm Điều 146 và Điều 147. Nội dung của Chương này hoàn toàn giống quy định của Hiến pháp năm 1980.

Tóm lại, Hiến pháp năm 1992 đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của lịch sử lập hiến Việt Nam. Đây là bản Hiến pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì đổi mới toàn diện và sâu sắc về kinh tế, từng bước và vững chắc về chính trị. Đây là bản Hiến pháp kế thừa có chắt lọc những tinh hoa của các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, là bản Hiến pháp vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta.

Hiến pháp năm 1992 đánh dấu sự phục hưng và phát triển của nền tảng kinh tế của xã hội Việt Nam vào những năm cuối của thế kỉ. Nó là tấm gương phản chiếu những đổi mới trong tư tưởng lập hiến và lập pháp của con người Việt Nam. Đó là bản Hiến pháp thể hiện sự độc lập và tự chủ trên tiến trình phát triển của nền triết học pháp quyền Việt Nam, một nền triết học pháp quyền thể hiện bản sắc dân tộc đồng thời thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn với tính quốc tế và hiện đại trên cơ sở phát triển những tinh hoa của nền văn hoá pháp lý Việt Nam và sự tiếp thu những tinh hoa văn hoá pháp lý thế giới.
(Còn nữa)