Gợi ý trả lời cuộc thi viết “Tìm hiểu Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam” (17)

ANTĐ - Hiến pháp năm 1992 không có điều khoản riêng quy định về chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương mà chỉ quy định về thẩm quyền của HĐND và UBND. Hiến pháp năm 2013 đã thay đổi cách tiếp cận, coi chính quyền địa phương là một thiết chế hiến định.

Câu 7.

Cấp chính quyền địa phương quy định trong Hiến pháp năm 2013 gồm những cơ quan nào? Bạn hãy nêu nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương đối với Nhân dân.
Trả lời (Tiếp):
Những điểm mới trong các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương trong Hiến pháp năm 2013

3. Thiết lập các nguyên tắc về mô hình tổ chức chính quyền địa phương có sự đổi mới phù hợp với đặc điểm đô thị, nông thôn, hải đảo

Để thực hiện một bước đổi mới mô hình tổ chức của chính quyền địa phương các cấp, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 26/2008/QH12 về việc thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường ở 10 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Sau một năm thực hiện Nghị quyết quan trọng này, Nhà nước ta đã tiến hành sơ kết thấy rõ những mặt thành công và những điểm còn hạn chế.

Ủy ban nhân dân được tổ chức đến cấp phường, xã ở mỗi địa phương

Trên cơ sở đó, Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng lần thứ XI chỉ đạo: “Tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trương không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường”. Đồng thời, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đại hội Đảng XI cũng có chủ trương: “Tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức và chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương nhằm xác lập mô hình tổ chức phù hợp, bảo đảm phân định đúng chức năng, trách nhiệm, thẩm quyền, sát thực tế, hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn phù hợp”.

Trong quá trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, đa số ý kiến thống nhất với nhau ở hai vấn đề mang tính nguyên tắc là đã có đơn vị hành chính thì phải có chính quyền; chính quyền phải bao gồm HĐND và UBND, UBND do HĐND cùng cấp bầu ra. Vì vậy, Điều 111 Hiến pháp năm 2013 quy định:

“1. Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”.

Điều 111 của Hiến pháp năm 2013 có sự xuất hiện khái niệm mới “cấp chính quyền địa phương”. Khái niệm này cho phép phân biệt rõ giữa cách phân chia đơn vị hành chính để quản lý với mô hình tổ chức chính quyền ở từng đơn vị hành chính. Ở tất cả các đơn vị hành chính phải có chính quyền địa phương nhưng không phải một đơn vị hành chính là một cấp chính quyền.

Cấp chính quyền được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Ở đâu được coi là cấp chính quyền thì chính quyền ở đó bao gồm HĐND và UBND, UBND do HĐND cùng cấp bầu ra; còn ở đâu không được coi là cấp chính quyền thì sẽ có cơ quan hành chính thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính và dịch vụ công tại địa bàn. Như vậy, Điều 111 Hiến pháp năm 2013 đã đưa ra quy định mới “cấp chính quyền địa phương” gồm có HĐND và UBND và cấp chính quyền được xác định ở những đơn vị hành chính nào sẽ do luật định, phù hợp với “đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt”.

Thực tế cho thấy, quản lý nhà nước đối với đời sống đô thị là khác so với quản lý nhà nước đối với đời sống nông thôn. Mặc dù vậy, Hiến pháp 1992 vẫn quy định việc thiết lập các đơn vị hành chính đô thị cũng như nông thôn, trên cùng một mặt bằng pháp lý, không có sự khác biệt. Dù là tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương đều là một cấp chính quyền “gọi chung là cấp tỉnh”, “gọi chung là cấp huyện” và “gọi chung là cấp xã”. Ở đây, có thể thấy hầu như chưa có ý tưởng tạo ra sự khác biệt giữa chính quyền nông thôn và đô thị, mặc dù trên thực tế hai địa bàn có đối tượng quản lý nhà nước rất khác nhau và vì vậy, đòi hỏi cách thức, phương pháp quản lý cũng phải khác nhau.

Qua nghiên cứu thực tế, đô thị có một số đặc điểm sau đây đòi hỏi phải có sự phân biệt trong mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở đô thị và nông thôn: tập trung dân cư với mật độ cao, địa giới hành chính và điều kiện sinh sống của người dân khá chật hẹp; cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội phát triển có tính liên thông, đồng bộ; có nếp sống, văn hóa của người dân gắn liền với đặc điểm sinh hoạt, giao tiếp rất đặc thù khác với nông thôn; là nơi dễ tập trung, phát sinh các tệ nạn xã hội gây phức tạp trong quản lý.

Xuất phát từ các đặc điểm nói trên của đô thị, quản lý Nhà nước ở đô thị đòi hỏi phải bảo đảm, tính thống nhất, đồng bộ và liên thông trên mọi khía cạnh của quản lý Nhà nước như tổ chức bộ máy, cơ chế, phương thức quản lý, thẩm quyền và trách nhiệm...

Các đặc điểm của nông thôn tương phản với các đặc điểm của đô thị: dân cư tập trung với mật độ không cao và phần lớn đất đai thường được sử dụng cho hoạt động sản xuất nông nghiệp; điểm dân cư nông thôn là nơi cư trú tập trung của nhiều hộ gia đình gắn kết với nhau trong sản xuất, sinh hoạt và các hoạt động xã hội khác; không có chức năng làm trung tâm và tính tập trung cao như ở đô thị; tính gắn kết trong những cộng đồng có quy mô nhỏ, phù hợp với cách quản lý theo kiểu tự quản, tự quyết định các vấn đề quan trọng.

Với đặc điểm cơ bản của nông thôn là tính gắn kết cộng đồng rất cao, cơ sở hạ tầng xã hội phát triển chưa cao, trình độ dân trí thấp hơn ở đô thị nên mô hình quản lý Nhà nước ở nông thôn phải có những khác biệt so với đô thị. Những khác biệt này đặc biệt nhấn mạnh đến các khuôn khổ tự quản và tổ chức các cấp chính quyền.

Do trình độ dân trí thấp hơn so với khu vực đô thị, phong cách quản lý và cách thức giao tiếp cộng đồng cũng khác nên các vấn đề quản lý mọi mặt kinh tế - xã hội phải được xử lý theo cách thức thể hiện tốt nhất ý chí của cộng đồng. Áp dụng cơ chế quản lý hành chính trực tiếp và bỏ qua vai trò của cơ quan đại diện, dù trong điều kiện hệ thống pháp luật có hoàn thiện đến đâu, sẽ không phù hợp với địa bàn nông thôn.

Theo tinh thần đó, quy định có tính mở về mô hình tổ chức chính quyền địa phương (tại Điều 111 Hiến pháp năm 2013) tạo cơ hội đón nhận tư tưởng đổi mới trong quá trình xây dựng Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
4. Bổ sung quy định về nhiệm vụ của chính quyền địa phương

Hiến pháp năm 1992 không có điều khoản riêng quy định về chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương mà chỉ quy định về thẩm quyền của HĐND và UBND. Hiến pháp năm 2013 đã thay đổi cách tiếp cận, coi chính quyền địa phương là một thiết chế hiến định.

Vì vậy, Hiến pháp năm 2013 cũng đã bổ sung một điều mới quy định trực tiếp chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương (Điều 112).
Theo đó, chính quyền địa phương có 2 loại nhiệm vụ được phân biệt với nhau: (1) tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương; (2) quyết định các vấn đề của địa phương do luật định.

Trong một Nhà nước đơn nhất như nước ta, nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu của chính quyền địa phương là tổ chức và bảo đảm thực hiện Hiến pháp, pháp luật tại địa phương. Đồng thời, chính quyền địa phương thực hiện các nhiệm xuất phát từ tính đặc thù của địa phương. Đây là nhiệm vụ có tính tự quản cao. Việc thực hiện hai nhiệm vụ quan trọng này đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên.

“Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương” (khoản 2 Điều 112 Hiến pháp năm 2013). Có thể nói, đây là một nguyên tắc hiến định quan trọng trong việc thiết kế cơ chế điều chỉnh mối quan hệ giữa chính quyền địa phương và chính quyền Trung ương (cũng như giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau) trong việc xây dựng Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các luật có liên quan.

Chỉ có trên cơ sở phân định rõ thẩm quyền của mỗi cấp chính quyền theo tinh thần phân cấp mạnh mẽ thì cơ chế xác định trách nhiệm, bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền mới hiệu quả. Bên cạnh cơ chế phân cấp, phân quyền theo tinh thần của Điều 52 và khoản 2 Điều 112 Hiến pháp năm 2013, còn có cơ chế uỷ quyền.

Vì vậy, khoản 3 Điều 112 Hiến pháp năm 2013 có quy định: “Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó”. Trên thực tế rất nhiều nhiệm vụ của Trung ương được giao cho địa phương thực hiện, nhưng chỉ giao việc mà không kèm theo các điều kiện để thực hiện công việc đó, do đó, gây rất nhiều khó khăn cho địa phương. Quy định tại Khoản 3 Điều 112 của Hiến pháp tạo cơ sở hiến định giải quyết nhiều bức xúc của các địa phương hiện nay.

5. Các quy định về Hội đồng nhân dân

Các quy định về HĐND trong Hiến pháp năm 2013 về cơ bản có sự kế thừa các quy định về HĐND trong Hiến pháp năm 1992. Theo tinh thần đó, Khoản 1 Điều 113 tiếp tục quy định “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân địa phương, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”.

Khoản 2 Điều 113 quy định rõ hơn chức năng và nhiệm vụ của HĐND địa phương, theo đó, HĐND thực hiện 2 loại chức năng là “quyết định” và “giám sát”, cụ thể, HĐND:

- Quyết định các vấn đề của địa phương do luật định;

- Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

Như vậy, ở vai trò thực hiện các vấn đề của địa phương, HĐND sẽ quyết định chính sách về những vấn đề thuộc địa phương trên cơ sở phát huy vai trò khởi xướng chính sách của UBND và các tổ chức, cơ quan khác, đồng thời giám sát việc thực hiện các chính sách này. Trong khi đó, đối với các nhiệm vụ mà Trung ương giao cho chính quyền địa phương thực hiện thì HĐND có trách nhiệm giám sát việc triển khai công việc này. Quy định thẩm quyền của HĐND như vậy là phù hợp với những điểm mới trong quy định tại Điều 112 về chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương.

Tuy nhiên, nếu việc cải cách hành chính được đẩy mạnh theo hướng phân cấp mạnh mẽ cho địa phương và tạo không gian pháp lý đủ rộng để các địa phương phát huy lợi thế so sánh và những đặc thù vốn có của mình thì vai trò tự chủ của chính quyền địa phương sẽ được phát huy hơn. Tính chủ động thực sự của HĐND trong khuôn khổ, trên các vấn đề mà các cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp, uỷ quyền sẽ được khẳng định.

Và lúc đó, tính đại diện của HĐND thể hiện ý chí, nguyện vọng, quyền lợi của nhân dân địa phương đã bầu ra mình sẽ rõ nét hơn. Trên thực tế, do sự phân cấp giữa Trung ương và các cấp địa phương chưa rõ ràng và mạnh mẽ, những vấn đề thể hiện lợi ích có tính đặc thù cũng như thể hiện yêu cầu cần phát huy tính chủ động của cơ quan đại diện địa phương các cấp chưa được làm rõ nên hoạt động của HĐND khó mà tránh được tính hình thức. Tính tự chủ của HĐND với tính cách là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương có thể nói, đến nay cũng còn có phần hạn chế. Điều này trực tiếp liên quan đến việc xác định ở cấp địa phương nào cần có cơ quan đại diện và từ đó việc đại diện mới có nội dung.

(Còn nữa)