Đại tướng Lê Đức Anh - những bước trường chinh không ngừng nghỉ

ANTD.VN - Tháng 4-1975, Đại tướng Lê Đức Anh (khi đó mang quân hàm Trung tướng), là Phó Tư lệnh chiến dịch, trực tiếp chỉ huy binh đoàn 232 bao vây tiến công quân địch từ phía Tây Nam Sài Gòn, cùng làm nên chiến thắng cuối cùng ngày 30-4-1975. “Người lính già đầu bạc” ấy trưởng thành từ cuộc đấu tranh cách mạng, trở thành một vị tướng chỉ huy kiệt xuất. 

Đại tướng Lê Đức Anh đã từ trần lúc 20h10 ngày 22-4, thọ 99 tuổi. Vị tướng cuối cùng trực tiếp chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã ra đi sau những người đồng chí của ông: Văn Tiến Dũng, Phạm Hùng, Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện, Lê Quang Hòa, Lê Ngọc Hiền. 

Đại tướng Lê Đức Anh - những bước trường chinh không ngừng nghỉ ảnh 1Chủ tịch nước Lê Đức Anh thăm các đơn vị Hải quân vùng 3 ngày 9-1-1996

“Anh Sáu Nam” của quân dân Nam bộ

Đại tướng Lê Đức Anh sinh ngày 1-2-1920, nguyên quán ở làng Bàn Môn nay thuộc xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Tên ba mẹ đặt cho ông là Lê Văn Giác. Khi bắt đầu đi học, thầy giáo nói với ba mẹ đổi tên thành vần A để ngồi gần bảng nhìn cho rõ hơn. Cái tên Lê Đức Anh có từ hồi đó.

Sinh ra trong một gia đình thuần nông nhưng quyết tâm đi học trong cảnh nghèo, cậu học sinh Lê Đức Anh đã sớm đồng cảm với những người nghèo bị áp bức và tham gia hoạt động cách mạng từ thời tuổi trẻ. Từ làng quê xứ Truồi, lịch sử đã đưa ông tới và gắn bó ông với vùng đất Nam bộ suốt mấy chục năm gian lao và anh dũng. Hoạt động cách mạng ở đồn điền cao su và tham gia chỉ huy giành chính quyền ở Lộc Ninh, từ sau tháng 8-1945, ông tham gia quân đội.

Từ một Trung đội trưởng, ông trưởng thành dần trong quân ngũ, đảm nhiệm các vị trí Tham mưu trưởng các Quân khu 7, Quân khu 8 và đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn (từ tháng 10-1948 đến năm 1950). Từ năm 1951 cho tới tháng 7-1954, kết thúc cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp, ông là Tham mưu phó rồi Quyền Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Nam bộ. Sau Hiệp định Geneva, ông tập kết ra Bắc và tiếp tục được giao những trọng trách mới: Cục phó Cục Tác chiến, Cục trưởng Cục Quân lực (Bộ Tổng Tham mưu). Từ tháng 8-1963, ông là Phó Tổng tham mưu trưởng của Quân đội nhân dân Việt Nam. 

Cuối tháng 12-1963, giữa một đêm tối mịt mù và giá rét giữa mùa đông, ông bí mật lên con tàu không số từ bến K15 (Đồ Sơn, Hải Phòng) để vào chiến trường Nam bộ. Sau nhiều ngày đêm lênh đênh trên biển, con tàu bí mật đưa ông tới Đất Mũi, Cà Mau. Từ đó, ông chính thức nhận nhiệm vụ quan trọng: Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Miền. Khi thì ở chiến trường Đông Nam bộ, khi thì về miền Tây, ông lăn lộn cùng bộ đội,  đồng bào, đồng chí trong cuộc chiến đấu và sống trong ký ức của quân dân khu 9, khu 7 với bí danh “anh Sáu Nam” thân thuộc.

Được thăng vượt cấp trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử

Trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968, đang là Tham mưu trưởng Miền, đồng chí Lê Đức Anh được phân công tham gia sở chỉ huy “Tiền phương 2” do đồng chí Võ Văn Kiệt phụ trách - gồm các đơn vị từ Long An và toàn bộ lực lượng biệt động và quần chúng vũ trang nội thành từ quận 1 đến quận 8 đảm trách tấn công vào nội đô Sài Gòn từ hướng Nam và Tây Nam.

Các đơn vị biệt động đánh các mục tiêu: Tòa Đại sứ Mỹ, dinh Độc lập, Đài phát thanh, Bộ Tư lệnh Hải quân, Kho xăng Nhà Bè, Tổng nha Cảnh sát, Biệt khu Thủ đô và một nửa sân bay Tân Sơn Nhất; phát động quần chúng chiếm các khu lao động, chờ đón quân chủ lực vào nội thành...

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Trung tướng Lê Đức Anh (ông được thăng vượt cấp từ Đại tá cuối năm 1974) là Phó Tư lệnh Quân giải phóng, Phó Tư lệnh chiến dịch, Tư lệnh binh đoàn 232. Đây là cánh quân đã khóa chặt hướng Tây - Tây Nam Sài Gòn và cùng nhân dân giải phóng hoàn toàn miền Tây Nam bộ bằng lực lượng tại chỗ. 

Đại tướng Lê Đức Anh - những bước trường chinh không ngừng nghỉ ảnh 2Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh họp tại căn cứ Tà Thiết, Lộc Ninh, khi đó Trung tướng Lê Đức Anh là Phó Tư lệnh, trực tiếp chỉ huy cánh quân khóa chặt hướng Tây - Tây Nam Sài Gòn

Trăn trở với công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ

Sau ngày chiến thắng, ông vẫn chăm lo việc quân đội, vẫn trăn trở với những bức xúc xã hội, vẫn lo củng cố tiềm lực của đất nước để bảo đảm bảo vệ vững chắc chủ quyền của quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. 

Đất nước thống nhất nhưng chưa bình yên do những hoạt động gây hấn xâm lược của bè lũ “Khme đỏ” Pol Pot. Tháng 6-1978, Trung tướng Lê Đức Anh là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Chỉ huy trưởng cơ quan tiền phương Bộ Quốc phòng ở Mặt trận Tây Nam. Ông cùng chỉ huy bộ đội tình nguyện Việt Nam giải thoát nhân dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng tháng 1-1979. Năm 1981, khi đang giữ chức Tư lệnh Quân khu 7, ông được phân công kiêm chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, Phó trưởng ban rồi Trưởng ban lãnh đạo chuyên gia Việt Nam tại Campuchia.

Năm 1984, ông được phong hàm Đại tướng và tiếp tục lãnh đạo quân đội, lãnh đạo đất nước trong những năm tháng ở giữa tình thế khó khăn, phải vượt qua bao vây cấm vận và bước vào hành trình hội nhập, đổi mới.  

Tháng 5-1988, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đi thị sát quần đảo Trường Sa ngay sau sự kiện Gạc Ma (14-3-1988). Ông dự lễ kỷ niệm 33 năm ngày truyền thống Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam (7-5-1955/7-5-1988) tổ chức tại đảo Trường Sa lớn và đã trang trọng tuyên bố: “Xin thề trước hương hồn của tổ tiên ta, trước hương hồn của cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau “Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta”.

Hình ảnh và bài phát biểu của Đại tướng Lê Đức Anh khi thăm Trường Sa Lớn năm đó đang được lưu giữ trang trọng tại phòng truyền thống của tất cả các đảo trên quần đảo Trường Sa.

Từ ngày 16-2-1987 đến 10-8-1991, Đại tướng Lê Đức Anh là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư thứ nhất Đảng ủy Quân sự Trung ương. Năm 1991, ông là Thường trực Bộ chính trị (khóa VII). Năm 1992, ông được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam bầu là Chủ tịch nước.

Đồng chí Lê Đức Anh là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ khóa IV đến khóa VIII, Ủy viên Bộ Chính trị từ khóa V đến khóa VIII, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII. Ông là đại biểu Quốc hội khóa VI, VIII, IX. Từ tháng 9-1997, ông là Cố vấn Trung ương Đảng đến tháng 4-2001.

Đại tướng Lê Đức Anh đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất và nhiều danh hiệu cao quý khác. Năm 2013, ông được tặng Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng.