Bổ sung căn cứ hưởng chế độ cho công chức làm việc ở vùng đặc biệt khó khăn

ANTD.VN - Bộ Nội vụ đang dự thảo Nghị định về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Đánh giá về các chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, Bộ Nội vụ cho biết, việc thực hiện những chính sách này đã mang lại kết quả tích cực. Qua đó, góp phần thu hút, khuyến khích, động viên cán bộ, công chức, viên chức, người lao động yên tâm công tác lâu dài.

Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện những chính sách này đã phát sinh vướng mắc cần được khắc phục như: quy định cùng một chính sách ở nhiều Nghị định khác nhau; việc hướng dẫn về địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và quy định đối tượng hưởng chính sách còn chưa cụ thể…

Do đó, để khắc phục những vướng mắc nêu trên thì việc trình Chính phủ ban hành Nghị định về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Để tránh trùng lặp trong việc hưởng chế độ, chính sách, dự thảo Nghị định quy định rõ các xã có điều kiện kinh tế -xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng chính sách quy định tại Nghị định này là xã khu vực III thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi và thôn đặc biệt khó khăn theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Do vậy, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo và các xã thuộc các huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ vì các xã này đã được hưởng chính sách của Chương trình 135 giai đoạn III (Quy định tại Quyết định số 1722/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020) không thuộc diện điều chỉnh của Nghị định này.

Ngoài ra, dự thảo Nghị định bổ sung quy định về việc xác định thời gian thực tế làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn để làm căn cứ tính hưởng các chế độ phụ cấp, trợ cấp.

Cụ thể, tính theo tháng: Trường hợp có từ 50% trở lên thời gian trong tháng thực tế làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế -xã hội đặc biệt khó khăn theo chế độ làm việc do cơ quan có thẩm quyền quy định thì được tính cả tháng; trường hợp có dưới 50% thời gian trong tháng thực tế làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì không tính.

Đối với nhà giáo đạt từ 50% định mức giờ giảng trong tháng trở lên thì được tính cả tháng.

Trường hợp tính theo năm: Dưới 3 tháng thì không tính; từ đủ 3 tháng đến đủ 6 tháng thì được tính bằng 1/2 năm công tác; từ trên 6 tháng được tính bằng 1 năm công tác.