Bức tranh nợ công bị lắp ghép từ nhiều mảnh, không hoàn chỉnh

ANTD.VN -Thảo luận ở hội trường về dự án Luật quản lý nợ công (sửa đổi) sáng 16-6, ĐB Hoàng Quang Hàm (đoàn Phú Thọ) cho rằng, bức tranh nợ công bị lắp ghép từ nhiều mảnh, không hoàn chỉnh.

 Cũng theo ĐB Hoàng Quang Hàm, để quản lý chặt chẽ nợ công cần giải quyết được gốc rễ 3 vấn đề: Xác định phạm vi nợ công phù hợp; Xác định tổ chức bộ máy đầu mối quản lý nợ công hợp lý, hiệu quả nhất; Nhận diện được rủi ro và xác định được công cụ, biện pháp quản lý, xử lý rủi ro đặc biệt là phải đảm bảo dự phòng cho các rủi ro tiềm ẩn.

Về phạm vi nợ công, ĐB này thống nhất với quy định trong Dự thảo, không tính vào nợ công nợ tự vay tự trả của DNNN, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức y tế Nhà nước...Tuy vậy, ĐB lại chưa thống nhất với việc Luật không quy định nội dung giám sát các khoản vay nợ không tính vào nợ công vì khi có rủi ro, Ngân sách Nhà nước vẫn có thể phải gánh chịu các khoản nợ này.

ĐB Hoàng Quang Hàm (đoàn Phú Thọ) phát biểu

"Trong khi đó, hiện nay các Luật liên quan cũng không quy định xử lý rủi ro các khoản nợ này trên nguyên tắc không tăng gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Khi các đơn vị sự nghiệp công lập Nhà nước không trả được nợ thì Nhà nước phải gánh nợ thay mà không có quy định các đơn vị này phá sản và thực tế không thể phá sản đơn vị sự nghiệp công lập. Đối với DNNN khi không trả được nợ có thể phá sản, nhưng tín nhiệm quốc gia sẽ bị ảnh hưởng, làm tăng chi phí đi vay, rủi ro cao"- ĐB phân tích.

 Về tổ chức bộ máy, đầu mối quản lý nợ công, theo ĐB Hoàng Quang Hàm, nếu để 3 cơ quan như hiện nay sẽ hạn chế việc xáo trộn bộ máy, phân định rõ hơn về trách nhiệm trong quản lý nợ. Song theo ĐB, sự phối hợp này chưa bao giờ thông suốt, bức tranh nợ công bị lắp ghép từ nhiều mảnh, không hoàn chỉnh.

Không thể chối cãi một đầu mối sẽ tốt hơn 3 đầu mối. Điều này sẽ làm giảm biên chế, tăng tính chuyên nghiệp cho cơ quan tổ chức, tăng niềm tin giảm phiền hà cho người cho vay. Bên cạnh đó, khi đưa quản lý nợ công đầu mối sẽ nhanh chóng có bức tranh tổng thể về nợ trong nước, nợ nước ngoài thay vì phải ghép nhiều mảnh ghép như hiện nay. Điều này cũng nhằm phục vụ tốt hơn cho công tác phân tích nợ, giảm rủi ro về nợ đồng thời đánh giá được tổng thể nhu cầu vay, giảm đầu mối trung gian, từ đó giảm chi phí vay.

Về nhận diện rủi ro và xử lý rủi ro nợ công, ĐB Hoàng Quang Hàm cho rằng cần phải giám sát cả những khoản nợ ngoài phạm vi nợ công vì khi có rủi ro đối với những khoản nợ này sẽ ảnh hưởng đến an toàn nợ công. Ngoài ra, Luật cũng cần quy định rõ hơn về trách nhiệm từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong từng bước, từng quy trình quản lý nợ, kể cả trách nhiệm trong thẩm định, phê duyệt chủ trương vay nợ...

Cũng liên quan đến phạm vi nợ công, ĐB Nguyễn Ngọc Bảo (đoàn Bắc Ninh) phát biểu, về phạm vi nợ công, Dự thảo cần xem xét kỹ thêm đối với các khoản nợ khác Chính phủ không bảo lãnh với DNNN và cả DN Nhà nước giữ cổ phần chi phối thì Nhà nước có trách nhiệm đối với các khoản nợ trong trường hợp doanh nghiệp mất khả năng trả nợ không? “Trong doanh nghiệp thường song song tồn tại khoản vay có bảo lãnh và khoản vay không có bảo lãnh. Khi DN mất khả năng trả nợ  thì trách nhiệm của nhà nước đến đâu?’"– ĐB Nguyễn Ngọc Bảo đặt câu hỏi.

Vị ĐB này phân tích, trên danh nghĩa các khoản vay này do doanh nghiệp tự vay tự trả  nhưng các DN này thường nhận được nguồn hỗ trợ “mềm”, đó chính là các khoản hỗ trợ của Chính phủ  dưới các hình thức như bổ sung vốn vay, giãn nợ, chuyển xóa nợ và trên thực tế chưa có DNNN nào phá sản dù thua lỗ, hoạt động kém hiệu quả.  Những khoản hỗ trợ này cuối cùng đều góp phần vào việc tăng chỉ tiêu ngân sách ảnh hưởng đến nợ công.

 Cho ví dụ về nội dung này, ĐB Nguyễn Ngọc Bảo nêu, đối với nợ của Vinashin tại các ngân hàng thương mại, Chính phủ đã phải bỏ ra một khoản tiền để bù đắp,  đồng thời chuyển một phần nợ cho Vinalines và bổ sung vốn, tăng vốn điều lệ cho Vinashin.