"Bàn tay can thiệp" giúp hạn chế rủi ro...

ANTĐ - Sự linh hoạt trong chính sách tiền tệ và điều hành tỷ giá của Việt Nam theo sát diễn biến tỷ giá Nhân dân tệ của Trung Quốc và thị trường thế giới. “Bàn tay can thiệp” của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã giúp điều chỉnh sức cạnh tranh về giá trên thị trường xuất khẩu của Việt Nam, giảm bớt dòng nhập siêu các hàng giá rẻ từ Trung Quốc (trong 7 tháng đầu năm 2015, Trung Quốc là nước xuất khẩu lớn nhất vào Việt Nam với kim ngạch ước tính đạt 28,8 tỉ USD, tăng 22,5% so với cùng kỳ năm trước). 
"Bàn tay can thiệp" giúp hạn chế rủi ro... ảnh 1

Sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc điều chỉnh tỷ giá giúp hạn chế nhiều rủi ro (Ảnh minh họa)

Hạn chế rủi ro cho nền kinh tế

Cần nhớ rằng, Trung Quốc đang xuất khẩu và cạnh tranh rất mạnh với Việt Nam vào 3 thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là  Mỹ (với kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam ước tính đạt 18,9 tỉ USD), EU (17,8 tỉ USD) và ASEAN (10,7 tỉ USD). Trong năm 2014, thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc ở mức 29 tỷ USD. Nửa đầu năm nay, con số thâm hụt là 16 tỷ USD. Một đồng Nhân dân tệ rẻ hơn có thể khiến thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc tăng cao.

Việc chủ động công bố định hướng và khống chế biên độ tỷ giá là cơ sở hạn chế rủi ro về chính sách và giảm thiểu chi phí phát sinh gắn với biến động tỷ giá, giúp các doanh nghiệp an tâm và ổn định trong giao dịch, thanh toán, tạo  động lực để doanh nghiệp mạnh dạn tái cơ cấu, đầu tư mở rộng quy mô, phát triển sản xuất kinh doanh. Ngân hàng Nhà nước khống chế biên độ tỷ giá đồng thời còn giúp  giảm thiểu tình trạng chênh lệch tỷ giá chính thức với giá trên thị trường tự do, ổn định dự trữ ngoại hối, củng cố niềm tin vào giá trị đồng tiền quốc gia, tăng thu hút FDI.

Bên cạnh điều hành tỷ giá, việc sử dụng quyết đoán và đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ khác, như: lãi suất, cải thiện điều kiện vay…, còn góp phần giúp thị trường tài chính tiền tệ “lặng sóng”, êm ả hơn. Nhờ đó, các ngân hàng huy động được tiền, từng bước giảm lãi suất; trong khi các doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn giá rẻ và bảo toàn được giá trị tiền gửi của người gửi tiền, cải thiện niềm tin của giới đầu tư vào môi trường kinh doanh Việt Nam. 

Giả sử, không điều chỉnh tỷ giá

Tuy nhiên, ở chiều tác động ngược lại, điều chỉnh tỷ giá VND sẽ ảnh hưởng đến các khoản nợ quốc gia, vì 80% các khoản vay của Việt Nam là bằng USD. Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, khi tỷ giá tăng 1%, dịch vụ nợ của Việt Nam sẽ tăng trên 10.000 tỷ đồng. Sự điều chỉnh tỷ giá còn có thể khiến tăng áp lực giá vàng trong nước, cũng như làm tăng giãn cách giá vàng trong nước với giá thế giới nếu thiếu nguồn vàng nhập bổ sung mới. Hơn nữa, điều chỉnh tỷ giá có thể làm tăng áp lực lạm phát và giảm thu nhập thực tế của người dân. Vậy chúng ta hãy đặt câu hỏi ngược lại, nếu e tác động ngược chiều khi điều chỉnh tỷ giá thì Ngân hàng Nhà nước có “đừng được” việc điều chỉnh không?

Vậy giả sử, nếu Ngân hàng Nhà nước không điều chỉnh tỷ giá, không ứng phó kịp với diễn biến Nhân dân tệ Trung Quốc phá giá và lường trước lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ điều chỉnh, thì tình hình sẽ ra sao? Hậu quả sâu nặng và lâu dài hơn cả chính là ở chỗ, việc định giá quá cao và kéo dài đồng tiền Việt Nam sẽ làm triệt tiêu các động lực phát triển sản xuất trong nước, trước hết là sản xuất và kinh doanh xuất khẩu, làm tăng buôn lậu và tham nhũng, kích thích sử dụng lãng phí ngoại tệ, không coi trọng các nguồn lực trong nước, kích thích nền kinh tế “bong bóng” phát triển trong tình trạng quá nóng.

Nó cũng làm gia tăng liên tục sự thâm hụt cán cân thương mại, cán cân thanh toán tài khoản vãng lai của nền kinh tế và hao hụt nhanh chóng dự trữ quốc gia để giữ giá bản tệ. Rốt cuộc, nếu không ứng phó tỉnh táo và kịp thời thì rất có thể nền kinh tế mau trở nên nghèo nàn và trống rỗng, những cơ sở kinh tế bảo đảm cho giá trị cao và ổn định của đồng tiền Việt Nam bị suy kiệt. Hơn nữa, Ngân hàng Nhà nước cũng không thể bán ngoại tệ kéo dài để giữ ổn định tỷ giá trong bối cảnh có tồn tại mức chênh lệch cao giữa tỷ giá chính thức với tỷ giá trên thị trường “chợ đen”, khiến dễ nảy sinh các hoạt động đầu cơ ngoại tệ và làm giàu ngay trên lưng quỹ dự trữ quốc gia.

Bởi trong tình huống giả sử đó, những người nhanh nhạy và có “quan hệ ảnh hưởng rộng” sẽ tìm mọi cách mua lượng lớn ngoại tệ giá rẻ qua kênh chính thống để bán ra thị trường “chợ đen” kiếm lời chênh lệch tỷ giá. Nếu xảy ra điều này, hệ lụy sẽ nặng nề hơn và khó suy đoán hơn rất nhiều đối với nền kinh tế, đó là chưa kể nếu có sự tiếp tay và cộng hưởng bởi nạn đầu cơ quốc tế hoặc tranh thủ “đục nước béo cò”, kích động tâm lý phá hoại  an ninh tài chính quốc gia và gây bất ổn kinh tế vĩ mô.

Chính sách linh hoạt vẫn là có lợi nhất

Thực tế cũng cho thấy, không có một cơ chế tỷ giá hối đoái nào là tối ưu trong mọi trường hợp. Nhưng, chính sách tỷ giá linh hoạt vẫn là phương thức phổ biến được nhiều quốc gia lựa chọn nhất. Ổn định tỷ giá không có nghĩa là duy trì tỷ giá bất biến, mà vận động “có lên-có xuống”, là điều kiện tốt cho tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ nhất định, bảo đảm quan hệ cung-cầu lành mạnh thị trường có sự điều tiết tích cực của nhà nước và kết hợp đồng bộ với các giải pháp khác.

Chúng ta có thể thấy Ngân hàng Nhà nước đã và đang triển khai một loạt các giải pháp đồng bộ. Đó là việc sẵn sàng bán ngoại tệ để can thiệp thị trường, kiểm soát chặt chẽ hoạt động mua bán ngoại hối, ngăn chặn và hạn chế những nhu cầu ảo, nhu cầu ngoại hối không chính đáng; thường xuyên cập nhật, phân tích, đánh giá một cách toàn diện, để từ đó có những kịch bản chủ động, linh hoạt điều hành tỷ giá.

Rõ ràng, đây không chỉ là điều kiện ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam, mà còn có ý nghĩa chính trị và kinh tế đặc biệt, đáp ứng yêu cầu giữ vững ổn định vĩ mô, hỗ trợ sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp, củng cố niềm tin trên thị trường và hài hòa các lợi ích trong bối cảnh kinh tế hiện nay...