Áp lực và động lực cho cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước

ANTD.VN - Dư luận cả nước rất phấn khởi trước thành công toàn diện và tích cực của phát triển kinh tế năm 2018, năm thứ hai liên tiếp hoàn thành và hoàn thành vượt mức tất cả các chỉ tiêu kinh tế - xã hội kế hoạch cả năm đặt ra. Tuy nhiên, dư luận cũng thắc mắc và quan ngại vì sao tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước năm 2018 chậm hẳn lại.

Bên cạnh những nỗ lực thúc đẩy và thành công bước đầu của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), nhất là về giảm số lượng, sắp xếp, đổi mới cơ chế quản lý và cải thiện hiệu quả kinh doanh của nhiều DNNN sau cổ phần hóa…, một điều rất đáng quan ngại là quá trình cổ phần hóa DNNN trong năm 2018 đang bị chậm chững hẳn lại, trong đó 2 thành phố lớn nhất là Hà Nội và TP.HCM, nơi suốt cả năm không cổ phần hóa được DNNN nào, mặc dầu chiếm tới khoảng 4/5 khối lượng nhiệm vụ cổ phần hóa DNNN cả nước của năm 2018?! 

Áp lực và động lực cho cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ảnh 1Tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước năm 2018 có phần chậm lại (Ảnh minh họa) 

Thực trạng và nguyên nhân

Theo Bộ Tài chính, trong 9 tháng, cả nước mới có 10 DNNN được phê duyệt phương án cổ phần hóa (gồm 9 DNNN và 1 đơn vị sự nghiệp), với giá trị trên 30.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 12% trong tổng số 85 DNNN phải hoàn thành cổ phần hóa năm 2018 theo kế hoạch phê duyệt tại Công văn số 991/TTg-ĐMDN ngày 10-7-2017 (riêng TP.HCM và TP Hà Nội phải đảm nhận 78% kế hoạch này, nhưng vẫn chưa cổ phần hóa được DNNN nào).  

Theo Bộ Tài chính, trong 9 tháng, cả nước mới có 10 DNNN được phê duyệt phương án cổ phần hóa (gồm 9 DNNN và 1 đơn vị sự nghiệp), với giá trị trên 30.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 12% trong tổng số 85 DNNN phải hoàn thành cổ phần hóa năm 2018 theo kế hoạch phê duyệt tại Công văn số 991/TTg-ĐMDN ngày 10-7-2017 (riêng TP.HCM và TP Hà Nội phải đảm nhận 78% kế hoạch này, nhưng vẫn chưa cổ phần hóa được DNNN nào). 

Nhìn chung, quá trình cổ phần hóa DNNN không chỉ chậm về tiến độ, mà việc chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu về Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC), đăng ký giao dịch trên sàn chứng khoán, chấp hành chế độ báo cáo tài chính hoạt động cũng chưa được thực hiện nghiêm túc. Đến nay, còn hơn 500 DNNN đã cổ phần hóa chưa thực hiện niêm yết trên thị trường chứng khoán theo quy định. Sau hơn 20 năm thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn DNNN, tính đến 31-12-2017, cả nước mới chỉ phê duyệt phương án cổ phần hóa của 32 đơn vị sự nghiệp công lập và tỷ lệ thoái vốn Nhà nước mới đạt khoảng 8% tổng số vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.

Hơn nữa, ước hàng nghìn tỷ đồng đã và đang bị thất thoát và thất thu Ngân sách Nhà nước từ nguồn đất, mặt bằng kinh doanh, tài sản công do chưa tính, hoặc không tính đúng, tính đủ giá trị quyền sử dụng đất, quyền thuê đất và các giá trị, lợi thế kinh doanh vô hình khác; tình trạng “trốn thầu” hoặc lỏng lẻo, hình thức trong triển khai đấu thầu và chuyển đổi mục đích sử dụng quỹ đất mà DNNN nắm giữ khi cổ phần hóa.

Nguyên nhân của sự chậm trễ và thiếu hiệu quả, thậm chí méo mó trong quá trình cổ phần hóa DNNN thời gian qua không chỉ do sự chưa đồng bộ và hoàn thiện của luật định liên quan, mà còn do hạn chế về nhận thức, quyết tâm chính trị và cả sự chi phối của lợi ích nhóm và thiếu trách nhiệm của người đứng đầu DNNN, cũng như đơn vị chủ quản. 

Áp lực và động lực cho cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ảnh 2Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong

Ngăn chặn cổ phần hóa để trục lợi cá nhân, vì lợi ích nhóm

Cổ phần hóa DNNN và thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là giải pháp quan trọng để tái cơ cấu và đổi mới hoạt động của DNNN. Quá trình này không phải đẩy nhanh bằng mọi giá, bất chấp hiệu quả, nhất là đối với các DNNN lớn, đang sử dụng quỹ đất lớn và vị trí thuận lợi, nhằm tránh thất thoát tài sản công, nhất là đất đai và bảo đảm an ninh quốc gia trong cổ phần hóa DNNN; nhưng cũng không thể để chậm trễ, dễ gây thất thoát tài sản công và cản trở quá trình đổi mới, phát triển chung của nền kinh tế. 

Để bảo đảm đẩy nhanh tiến độ và hài hòa lợi ích, khuyến khích xã hội hóa đầu tư, kể cả thu hút vốn nước ngoài vào quá trình cổ phần hóa DNNN, cùng với việc sớm hoàn thiện hành lang pháp lý cho cổ phần hóa DNNN một cách thực chất, cần rà soát và chốt chặt, làm rõ kế hoạch và trách nhiệm cá nhân cụ thể về cổ phần hóa, thoái vốn DNNN cho từng năm; đề cao kỷ luật chấp hành chỉ đạo trong công tác cổ phần hóa của các Bộ, ngành và địa phương; có phương án cụ thể, có nhiều bước đi hơn và minh bạch về nhân sự và xử lý lợi ích để giải tỏa tâm lý lãnh đạo DNNN sợ mất vị trí, quyền lợi sau cổ phần hóa; tăng cường minh bạch thông tin và cụ thể hóa cơ chế tính giá trị, nghĩa vụ và quyền sử dụng đất đai, khắc phục tư tưởng né tránh trách nhiệm, sợ va chạm và ngại bộc lộ nhiều “vùng tối” về các mối quan hệ pháp lý, đất đai, nợ nần và quyết toán tài chính của DNNN; tăng cường xúc tiến đầu tư hướng đến nhà đầu tư chiến lược đích thực, gắn bó với lĩnh vực hoạt động của DNNN sau cổ phần hóa …

Hơn nữa, cần chú ý cân nhắc kỹ tỷ lệ bán cổ phần và lộ trình thoái vốn Nhà nước sao cho hợp lý, chỉ giữ cổ phần khống chế trong trường hợp cần thiết; đẩy nhanh lộ trình thoái vốn nhằm tránh rủi ro giảm giá trị cổ phần còn lại của Nhà nước sau khi không còn nắm giữ tỷ lệ cổ phần khống chế sau cổ phần hóa. Đồng thời, tăng cường kiểm toán Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp và việc sử dụng nguồn thu từ đất của các DNNN đã cổ phần hóa, nhận diện đầy đủ và sớm xử lý nghiêm các sai phạm. 

Đặc biệt, cần kiện toàn bộ máy và tiếp tục hoàn chỉnh cơ chế, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước với tư cách là cơ quan đầu mối lớn nhất, đại diện quyển sở hữu vốn Nhà nước tại doanh nghiệp; tạo lực đẩy mới, toàn diện và mạnh mẽ cả về tiến độ, hiệu quả và độ sâu của quá trình cổ phần hóa.

Việc tuyên truyền về cổ phần hóa DNNN trong thời gian tới cần được đẩy mạnh và phù hợp cho các đối tượng liên quan, theo đó: Cần chú ý tuyên truyền để những người lao động và lãnh đạo DNNN thấu suốt chủ trương của Đảng, Nhà nước, nhận thức đầy đủ trách nhiệm người cán bộ, đảng viên và quyền lợi việc làm, Bảo hiểm xã hội và mua - bán cổ phần của DNNN trong quá trình cổ phần hóa DNNN mà họ đang là thành viên. Đặc biệt, làm rõ trách nhiệm và cơ chế xử lý các sai phạm của cơ quan chủ quản, tư vấn và cá nhân lãnh đạo trong chỉ đạo, lập phương án và bảo đảm tiến độ, hiệu quả các hoạt động cổ phần hóa DNNN, nhất là các hành vi cố tình trì hoãn tiến trình, tính toán sai, cố ý hạ thấp giá trị DNNN khi cổ phần hóa để trục lợi cá nhân, vì lợi ích nhóm…

Nguyên nhân của sự chậm trễ và thiếu hiệu quả, thậm chí méo mó trong quá trình cổ phần hóa DNNN thời gian qua không chỉ do sự chưa đồng bộ và hoàn thiện của luật định liên quan, mà còn do hạn chế về nhận thức, quyết tâm chính trị và cả sự chi phối của lợi ích nhóm và thiếu trách nhiệm của người đứng đầu DNNN, cũng như đơn vị chủ quản.