Thương người như thể thương thân

ANTD.VN - Thăng Long - Hà Nội không chỉ là trung tâm chính trị mà còn là trung tâm văn hóa và kinh tế lớn nhất nước qua các triều đại phong kiến Việt Nam. 

Phát huy truyền thống lá lành đùm lá rách, Báo An ninh Thủ đô luôn tích cực chia sẻ, giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn

Nhờ buôn bán, sản xuất hàng hóa phát triển nên nhiều gia đình trở nên giàu có. Chính vì thế, người nghèo khó về đây cũng nhiều. 

Ca dao tục ngữ có câu:

Đông Thành là mẹ là cha

Đói cơm, thiếu áo thì ra Đông Thành

Đông Thành là chợ có từ nhà Lý và là chợ lớn  nhất Thăng Long. Người nghèo đói thiếu ăn ra chợ ít nhiều cũng được người bán hàng, kẻ đi chợ giúp đỡ. Chuyện xưa kể lại rằng, thời vua Tự Đức, có một phụ nữ  Hà Nội thương người như thể thương thân, luôn sẵn sàng giúp đỡ người nghèo khó, đó là bà Lê Thị Mai.

Thuộc hàng khá giả nhưng bà không ham làm giàu thêm mà dùng số tiền đã có mở nhiều quán sinh đồ ở đầu phố Hàng Giấy, Hàng Đậu gần trường Đại tập của ông nghè Lê Đình Diên, một nhà Nho có khí phách chống thực dân Pháp cho trò nghèo trọ không lấy tiền.

Trò nào quá khó khăn, bà cho tiền mua mực, sách và cho ăn. Năm 1873, Pháp chiếm thành Hà Nội, cũng năm đó Bắc Kỳ lụt lội mất mùa, dân đói kém, triều đình mở kho lương phát chẩn nhưng không đủ nên bà đã đi khắp Hà Nội vận động các gia đình khá giả ủng hộ lương và tiền giúp họ, vì thế nhiều người mang ơn bà.

Khi bà mất, dân đã lập miếu thờ bên cạnh mộ. Tấm lòng thơm thảo của bà đến tai vua Tự Đức và ngài  đã ban cho bà sắc phong “Tiết phụ Từ” . Bản đồ Hà Nội năm 1890 vẫn còn ghi rõ địa điểm mộ và miếu thờ ven hồ Trúc Bạch (chỗ giáp với đền Trấn Vũ), nhưng sau đó chính quyền mở mang thành phố nên cả miếu và mộ bị san phẳng không rõ năm nào.

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nhiều người Việt Nam nhanh chóng bắt kịp với lề lối làm ăn của thương nhân người Pháp và Hoa kiều, họ đã khá giả lên nhanh chóng, trong đó phải kể đến doanh nhân Bạch Thái Bưởi, một tư sản dân tộc. Cùng với công việc kinh doanh, ông Bạch Thái Bưởi  đã dành một phần tiền cho các hoạt động từ thiện, xã hội giúp đỡ dân nghèo ở Hà Nội và Bắc Kỳ.

Trong 2 năm 1903 và 1904, Hà Nội xảy ra dịch bệnh làm nhiều người chết, trong đó có rất nhiều xác vô thừa nhận, không ai chôn cất.  Doanh nhân Bạch Thái Bưởi đã cùng với các ông Vũ Quang Huy, Đỗ Đình Đắc, Phạm Sỹ Hạnh, Long Ngổ… góp tiền lập ra Hội Hợp Thiện với mục đích “Phù thi tử lộ”.

Theo thời gian, hội lo ma chay cho hội viên và người nhà hội viên rồi tiến tới lo ma chay cho người nghèo ở ngoài hội. Để có đất chôn cất, hội đã mua 300 mẫu ruộng của làng Quỳnh Lôi (nay thuộc quận Hai Bà Trưng) làm nghĩa địa. Và từ “độ tử”, hội đã chuyển sang “độ sinh”, giúp đỡ những người khốn cùng trong xã hội. 

Nói đến làm việc thiện ở Hà Nội không thể không nói đến một người đó là bà Cả Mọc. Bà tên thật là Hoàng Thị Uyên, người làng Kim Lũ, trước kia thuộc xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Đại Kim, quận Hoàng Mai. Lấy chồng được mấy năm chưa có con thì chồng qua đời, bà ở vậy phụng dưỡng mẹ chồng, dù lúc bấy giờ tuổi chỉ mới 20. Nhà chồng không có ruộng nên mờ sáng, bà cùng với nhiều người làng đi bán hàng thuê ở phố Hàng Đào.

Rồi bà vay vốn mở một cửa hàng nhỏ bán tơ lụa lấy tên là Nghĩa Lợi ở chính phố này. Nhờ buôn bán thật thà, không nói thách, lại sẵn sàng cho chịu nên cửa hàng của bà ngày một đông khách. Năm 1923, đê Nam Định, Thái Bình bị vỡ nên ruộng vườn, nhà cửa lụt lội, dân đói ăn nằm la liệt trên đường. Xót thương, bà lấy tiền nhà ủng hộ, hết tiền, bà đi quyên chị em, bạn hữu và bà con buôn bán rồi nhờ thanh niên đi phát cùng.

Năm 1938, bà bỏ tiền mua miếng đất hơn 1.000m2 ở ngõ Hàng Đũa (nay là phố Ngô Sỹ Liên) xây nhà Tế Sinh. Trên cổng ra vào bà cho đắp khẩu hiệu “Ấu nhân chi ấu - Yêu con mình, yêu cả con người”. Bên trong bà cho kẻ khẩu hiệu “Tất cả vì trẻ con” trên tường. Nhờ ông Nguyễn Văn Vĩnh và nhiều nhà báo khác đăng miễn phí liên tục mục đích của nhà Tế Sinh trên nhiều tờ báo nên người ta mới hiểu được hoạt động của lớp mẫu giáo này. Sáng sáng, những người làm thuê, nhà nghèo có con nhỏ không có người trông đã mang con đến gửi, chiều họ đón con về.

Không chỉ tắm rửa cho trẻ, Tế Sinh còn nuôi ăn và không thu một đồng. Ai có lòng hảo tâm tặng quà hay tiền thì bà nhận. Đốc lý Hà Nội đến thăm và không ngờ An Nam lại có nhà trẻ đầy tính nhân ái vì thời điểm đó ở châu Âu chưa có mô hình này. Vua Bảo Đại nghe tin từ Huế đã ra thăm, ban cho bảng vàng nhưng bà từ chối không nhận.

Khoảng năm 1943, bà Cả Mọc mua mảnh đất ở Nội Bài (nay thuộc huyện Sóc Sơn) xây dãy nhà để đón gần 30 chục lão ông, lão bà không nơi nương tựa về ở. Không chỉ nuôi ăn mà bà còn cho mời bác sỹ từ Hà Nội lên để khám và chữa bệnh. Tháng 3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho mời bà lên Bắc Bộ phủ dùng trà và Người khen ngợi những việc bà đã làm khi dân ta còn nhiều người nghèo khổ.  

Ngoài Hợp Thiện, bà Cả Mọc, Hà Nội còn có Hội Phúc Thiện của công nhân ngành hỏa xa (trụ sở ở phố Lê Trực), Hội ái hữu tương tế rồi Hội Quảng Thiện (trụ sở ở ngõ Cổng Đục) và đặc biệt khi có lũ lụt dịch bệnh thì thanh niên, sinh viên hay Hội Công thương Bắc Kỳ đã tổ chức diễn văn nghệ ở Nhà hát Lớn quyên tiền giúp người bị nạn.  

Ngày nay, nhiều cá nhân, đơn vị trên địa bàn Hà Nội không chỉ góp tiền của mà còn đứng ra cùng chung tay góp sức giúp đỡ người nghèo. Nét đẹp thương người như thể thương thân của người Hà Nội chắc chắn sẽ được các thế hệ tiếp nối.