Nếp nhà Hà Nội xưa

ANTD.VN - Cuốn “Chuyện cũ bên dòng sông Tô” của Viên Mai Nguyễn Công Chí thực chất là những ghi chép chuyện trong nhà, chuyện Thăng Long - Hà Nội qua từng giai đoạn của dòng họ Nguyễn Đình (quê gốc xã Duyên Thái, huyện Thường Tín, Hà Nội) lên Thăng Long lập nghiệp ở phố Hàng Ngang cuối thế kỷ XVII. 

Nếp nhà Hà Nội xưa  ảnh 1Tái hiện đời sống của một gia đình trung lưu Hà Nội vào thế kỷ XIX

Những ghi chép cho thấy không gian một gia đình Thăng Long - Hà Nội hiện ra rõ nét, gian ngoài của nhà ống là cửa hàng bán chè, thuốc lào; bên trên gác “chồng diêm” là kho chứa hàng. Một khoảng sân trống có cây cảnh và vại nước. Căn gác gian trong là phòng đọc sách của gia chủ, dưới là phòng khách. Trong nữa là phòng ngủ, bếp ăn và chỗ vệ sinh.

Những ghi chép cũng cho thấy đây là dòng họ theo tiêu chí Nho giáo: “Nhân - Nghĩa - Trí - Lễ - Tín”. Và như bao gia đình buôn bán đất Kẻ Chợ, tay hòm chìa khóa là các các bà trong nhà. Cuốn sách cũng mô tả bữa giỗ khi gia đình chạy loạn về quê với trách nhiệm của từng thành viên và lòng tôn kính tổ tiên. Ngay cả khi kinh tế gia đình không còn sung túc thì nếp nhà vẫn không thay đổi.

Chính gia đình này đã mời thầy Phạm Đình Hổ đến dạy chữ cho con cái, dạy đạo làm người và ở đây Phạm Đình Hổ đã viết cuốn sách “Vũ trung tùy bút”. Nhà Nho đã rút ra nhiều  điều về giáo dục con cái trong các gia đình ở Thăng Long: “Phong tục chuộng thói trung hậu, mọi người hàng ngày giao tiếp với nhau có ý khoan dung, bình dị, giữ thói khiêm nhường. Nếu ai có điều gì sằng bậy, thì chỉ sợ người ta biết mà chê cười. Đến như những kẻ thân quan, quốc thích và những kẻ con em vô lại rong chơi, cũng không dám công nhiên làm càn. Nếu có kẻ nào không theo lễ phép mà làm sằng, thì những bậc phụ lão nhà lương gia lại ngầm đem chuyện ấy để răn bảo con cháu”.

Một cuốn sách khác do người  nước ngoài viết là “Lịch sử tự nhiên, dân số và  chính trị xứ Đàng Ngoài” (Histoire naturelle.civile et politique du Tonkin, Paris 1778). Tác giả là Richard - một thầy tu sống ở Thăng Long khá lâu nên ông am hiểu phong tục, tập quán mảnh đất này. Ông mô tả chuyện ăn cơm khách tại một gia đình trung lưu ở Thăng Long: “Nấu ăn là vợ gia chủ” và “nấu rất ngon” còn ông chủ “chỉ cần đưa mắt là vợ con biết ý và làm theo”, kết thúc bữa ăn “chủ nhà lấy khăn trắng cho khách lau tay”.

Cuốn “Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688”, tác giả William Dampier người Anh đánh giá cao khả năng buôn bán của người phụ nữ Thăng Long - Hà Nội trong kiếm tiền cho gia đình: “Đổi tiền là một nghề quan trọng ở đây. Làm nghề này là phụ nữ - những người khéo léo và khôn ngoan đặc biệt về nghề này. Họ thực hiện công việc về đêm và biết cách sinh lời giỏi chẳng kém các nhà buôn cổ phần tinh khôn nhất ở London”. Và những cô bán hàng trong các “cửa hàng tơ lụa ở phố Hàng Đào, lộng lẫy rực rỡ như chốn hang động của Alibaba”. Trong “Một chiến dịch ở Bắc Kỳ” (Une campagne au Tonkin, Paris 1892), tác giả Hocquard cũng có những nhận xét tốt đẹp về phụ nữ Hà Nội.

Có một sự khác biệt giữa phụ nữ ở Thăng Long và phụ nữ các vùng quê - những người chỉ giữ vai trò thứ yếu trong gia đình bởi trụ cột là người đàn ông; họ gánh vác hầu hết các công việc nặng nhọc, tay dao tay thớt trong bữa cỗ. “Em là con gái Phụng Thiên (Thăng Long)/ Bán rau mua bút mua nghiên cho chồng…”, câu ca dao cổ này nói lên vai trò  của phụ nữ và phận sự của người đàn ông trong gia đình Thăng Long là học hành, thi cử để làm việc lớn.

Thời vua Tự Đức, Hà Nội có câu “Nhất Cống Sùng, nhì Cống Vẽ”, bà Cống Sùng và bà Cống Vẽ là 2 người giàu có song vẫn giữ trọn đạo làm con với cha mẹ, tôn trọng chồng, dạy bảo con cái điều hay lẽ phải và luôn là tấm gương cho các con noi theo. Đầu thế kỷ XX, có tấm gương bà Lê Thị Lễ, vợ của nhà yêu nước Lương Văn Can, bà đã lấy tiền nhà, bán cửa hiệu Quảng Bình An (của hồi môn của bà chuyên bán vải) ở phố Hàng Ngang cho “Đông Kinh nghĩa thục” hoạt động, để ông theo “trọn con đường phụng sự Tổ quốc”. Khi con trai Lương Ngọc Quyến bị Pháp bắt và xử án, trước tòa bà Lễ nói: “Từ thuở còn trong bào thai, chúng tôi đã dạy con về tình thương yêu nòi giống.

Bởi vậy, các con tôi theo đuổi mục đích cứu nước là hợp đạo lý gia đình và đạo lý đất nước chúng tôi, sao lại gọi là phản loạn”.  Khi chồng mãn hạn lưu đày trở về Hà Nội, bà lại dốc tài sản xây dựng trường học, để chồng tiếp tục sự nghiệp.  Bà mất, Lương Văn Can đã viết: “(Bà) là nhà buôn có đức nghiệp nên đã có đủ kinh tài, trên thì phụng dưỡng cha mẹ và dưới thì biết nuôi dạy con cháu nên người.

Còn về đức hạnh thì (bà) biết giữ cho gia tộc trong khuôn khổ Nho giáo, trên kính dưới nhường, giữ đạo vợ chồng thủy chung trong muôn vàn gian lao hiểm họa...”. Rồi sau này là bà Hoàng Thị Minh Hồ, vợ của nhà tư sản dân tộc yêu nước Trịnh Văn Bô, dù tay hòm chìa khóa nhưng khi muốn cạo răng đen thành răng trắng bà cũng  xin phép cha mẹ chồng. Không chỉ trong các gia đình trung lưu, các gia đình thị dân cũng luôn “trên kính dưới nhường”, “giữ hòa khí trong nhà”, “nuôi dạy các con thành người”.

Cùng phong tục, tập quán Việt, cùng ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo song gia đình ở Thăng Long - Hà Nội có những đặc điểm riêng: vợ và chồng bình đẳng hơn, đàn ông không gia trưởng như ở vùng quê. Nguyên nhân vì họ ở kinh kỳ, sống bằng buôn bán và làm hàng thủ công; lại tiếp xúc với những người nước ngoài đến đất này nên lối sống, giao tiếp ứng xử trong gia đình có phần khác.