Từ 1-1-2018: Hàng loạt tội không còn án tù chung thân

ANTD.VN - Theo Bộ luật Hình sự (BLHS) 2015 sửa đổi, từ 1-1-2018, nhiều tội danh sẽ bỏ hình phạt tù chung thân như Tội buôn lậu, Tội trộm cắp tài sản, Tội đưa hối lộ…

Điều 153 BLHS 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 về Tội buôn lậu nêu rõ, người nào buôn bán trái phép qua biên giới: hàng hóa, tiền, ngoại tệ, đá quý… có giá trị từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng hoặc dưới 100 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính, bị kết án một số tội về buôn bán, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ… sẽ bị phạt tiền 10-100 triệu hoặc phạt tù từ 6 tháng-3 năm. Theo Điều luật này, mức hình phạt cao nhất là tù chung thân.

Đến BLHS 2015, phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Vật phạm pháp trị giá 1 tỷ đồng trở lên; Thu lợi bất chính 1 tỷ đồng trở lên; Lợi dụng chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh hoặc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác thì bị phạt tù từ 12-20 năm. Như vậy mức hình phạt cao nhất giảm xuống chỉ còn 20 năm tù. 

Về Tội đưa hối lộ, điều 289 BLHS 1999 quy định, người nào đưa hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ 500.000 đồng - dưới 10 triệu đồng hoặc dưới 500.000 đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần sẽ bị phạt tù ít nhất 1 năm. Hình phạt cao nhất dành cho tội này là tử hình nếu của hối lộ có giá trị từ 300 triệu đồng trở lên; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Đến BLHS sửa đổi năm 2009, mức hình phạt cao nhất của tội này là tù chung thân.

Tuy vậy, theo BLHS 2015 sửa đổi, người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích (vật chất, lợi ích phi vật chất) để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ thì bị phạt thấp nhất từ 20- 200 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm. Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá 1 tỷ đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12-20 năm. Như vậy, mức hình phạt cao nhất là 20 năm.

Người đưa hối lộ có thể phải ngồi tù tới 20 năm

Đối với Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, Điều 137 BLHS 1999 nêu rõ, người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ 2-dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 500.000 đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành chính, bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù. Phạm tội chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng sẽ phải chịu mức án cao nhất là tù chung thân. Tuy vậy, theo BLHS 2015, mức hình phạt cao nhất chỉ là 20 năm tù, đồng thời  bổ sung tình tiết tăng nặng là lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Đối với Tội trộm cắp tài sản, theo điều 138 BLHS 1999, người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2-dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính, bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tối thiểu ở mức cải tạo không giam giữ đến 3 năm. Nếu có tình tiết tăng nặng như chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, người phạm tội có thể bị tù chung thân.

 BLHS 2015 đã bổ sung hai tình tiết tăng nặng là lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh và tình trạng khẩn cấp. Hình phạt cao nhất của tội này được giảm xuống còn 20 năm tù.

Về Tội trốn đi nước ngoài, điều 91 BLHS 1999 quy định, người nào trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân, thì bị phạt tù từ 3-12 năm. Người tổ chức, người cưỡng ép, người xúi giục thì bị phạt tù từ 5-15 năm. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 12-20 năm hoặc tù chung thân. Còn tại BLHS 2015, mức hình phạt cao nhất là 20 năm tù, đồng thời bổ sung quy định, người chuẩn bị phạm tội này thì bị phạt tù từ 1-5 năm.

Về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, theo điều 140 BLHS 1999, người nào chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ 4-dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 4 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính, bị kết án về tội Chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mức hình phạt tối thiểu là cải tạo không giam giữ đến 3 năm. Trường hợp tài sản chiếm đoạt trị giá 500 triệu đồng trở lên, người phạm tội có thể bị tù chung thân. Còn theo BLHS 2015, mức hình phạt cao nhất đối với đối tượng thực hiện hành vi phạm tội là 20 năm tù.

Đối với Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, BLHS 1999 nêu rõ, người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại từ hai đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính, bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm. Người phạm tội nếu gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì có thể bị tù chung thân. Với tội danh này, BLHS 2015 đã giảm mức hình phạt cao nhất xuống còn 20 năm tù.

Về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, BLHS 1999 quy định, người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện một trong những hành vi như truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; lừa đảo trong thương mại, kinh doanh; làm giả thẻ ngân hàng… thì bị phạt tiền 10-100 triệu đồng hoặc phạt tù ít nhất 1 năm. Nếu chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, mức án cao nhất là tù chung thân. Còn theo điều 290 BLHS 2015 mức hình phạt tối thiểu là cải tạo không giam giữ tới 3 năm, cao nhất là 20 năm tù. 

 Ngoài ra, với 2 tội: Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh và Tội bỏ vị trí chiến đấu hoặc không làm nhiệm vụ trong chiến đấu, mức hình phạt cao nhất được quy định tại BLHS 2015 sửa đổi là 20 năm tù (luật cũ là tù chung thân).