Ai yêu nghệ thuật mới giữ được những cánh đồng

ANTD.VN - Cánh đồng không chỉ nuôi sống những đời người, mà còn là chủ đề, đề tài, nguồn cảm hứng của nhiều tác phẩm nghệ thuật. Ngoại thành Hải Phòng quê tôi, như nhiều vùng quê khác đã mất dần ruộng bởi bị các chung cư, khu công nghiệp chiếm đoạt. Chỉ riêng những cánh đồng trong nghệ thuật là còn mãi mãi. 

Ai yêu nghệ thuật mới giữ được những cánh đồng ảnh 1Ảnh NSND Lâm Tới chèo thuyền trên cánh đồng, phim “Cánh đồng hoang”

Làm phim tài liệu từ năm 1965, tôi đã ghi được nhiều hình ảnh cánh đồng mà giờ đây mỗi lần khi chiếu phim lên xem lại, tôi cứ tưởng mình còn đang quay phim ở đấy.   

Lại nhớ đến họa sĩ Dương Bích Liên (1924-1988) có bức tranh “Được mùa” nổi tiếng bày ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, cũng một giống lúa như thế, cao gần bằng đầu người trĩu bông la đà. Hai chị em cô bé gánh lúa ở một góc hình, bố cục rất lạ. Tôi nhớ đôi mắt em bé, thăm thẳm đưa ta về những cánh đồng xa xôi…

Cách đây vài năm, tôi gặp nhạc sĩ Phạm Duy (1921-2013) đi cùng nhà thơ Thụy Kha ở nhà bạn tôi là Hoàng Gia Cung, nhân nhắc đến bài “Gánh lúa” - một ca khúc thời tiền chiến: Lão bà tóc trắng kĩu kịt quang gánh, môi trầu mà tươi đám cỏ xanh… Hơn nửa thế kỷ trôi qua rồi mà môi trầu còn thắm đến bây giờ.

Miền Trung, từ trên máy bay nhìn xuống, những cánh đồng khô hạn là tấm áo vá bạc màu xác xơ vật gió, như đoạn viết về miền Trung trong trường ca “Trầm tích” của Hoàng Trần Cương: Miền Trung mỏng và sắc như cật nứa…/Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt/ Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ…

Người bạn quay phim của tôi kịp ghi được hình ảnh bà mẹ miền Trung gánh đôi quang gánh nặng trĩu đi qua cánh đồng cát trắng, gió Lào ào ạt, chiếc váy sồi căng ra giống một cánh buồm. Tôi nói với Hoàng Trần Cương: Cương ơi, nhớ thương muôn đời những đồng cát trắng, những mẹ miền Trung!

Đồng mênh mông từ Nam ra Bắc

Nhiều lần tôi đi qua những cánh đồng Tuy Hoà - Phú Yên. Gió lồng lộng như trong cơn bão táp. Cánh đồng lúa xanh cuồn cuộn sóng. Những cánh đồng trên khắp đất nước, không có nơi nào gió to, sóng lúa đẹp dữ dội đến thế! Vựa lúa Việt Nam - những cánh đồng bạt ngàn của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, lũ lượt xe trâu chở lúa kẽo kẹt những buổi chiều tà, đẹp và thanh bình như trong văn tả cảnh của Bình Nguyên Lộc - nhà văn Nam bộ.

Ngược đường lên Tây Bắc, qua những cánh đồng Mường Thanh - Điện Biên, trên đường đi Phong Thổ, Sìn Hồ, con đường lượn ngoằn ngoèo giữa điệp trùng núi cao. Bất chợt ngửa mặt nhìn trời, xa tít trên đỉnh núi là những ruộng lúa bậc thang đang vào mùa, lung linh như áng mây vàng.

Tôi đã có lần thăm người anh em kết nghĩa là Mùa Sống Lử, ở một cánh đồng trên đỉnh núi. Ban đêm, ngồi uống rượu ngắm sao trời. Những ngôi sao gần gũi ngỡ giơ tay là hái được, lung linh hạt ngọc, tựa những bông lúa toả hương thơm bên mâm rượu, trong lòng tay mình.

Những ngày ngồi thuyền, phiêu lãng trên Đồng Tháp Mười, những cánh đồng lúa Trời nặng trĩu bông, la đà trên mặt nước, ràn rạt chạm vào mũi thuyền. Con thuyền rẽ lúa mà đi. Nghe ông Tư đàn cò vừa chơi đàn, vừa hát “Dạ cổ hoài lang”: Từ là từ phu tướng/ Bảo kiếm sắc phong lên đàng…

Chừng nửa buổi, lúa đã gặt đầy thuyền, ghé vào bờ ruộng, gây một bếp lửa lom dom, nướng cá đồng tươi uống rượu. Cánh đồng mênh mông nước nổi, vọng lại tiếng cười của các cô chở lúa trên đồng, áo đen, khăn rằn. Đường chừ xa ong bướm/ Xin chớ đừng phụ nghĩa tào khang… Nghĩa tào khang là nghĩa phu thê, vợ chồng. Tháp Mười có cánh đồng Phu Thê, hai vợ chồng chung sức gặt hết cả một đồng lúa Trời.

Tới những cánh đồng bát ngát trong phim

Nhớ bộ phim “Cánh đồng hoang” (Bông sen Vàng Liên hoan phim Việt Nam lần 5, 1980 và Huy chương Vàng tại Liên hoan phim quốc tế    Matxcova 1981) của đạo diễn NSND Nguyễn Hồng Sến (1933-1995), vợ chồng anh Ba Đô (Lâm Tới và Thúy An đóng) và đứa con nhỏ sống ở nhà chòi trên nước quần nhau với máy bay trực thăng giặc Mỹ.

Tác phẩm điện ảnh mang cái đẹp bi tráng và trữ tình đầy chất Nam bộ hào sảng. Tính cách ưa sông nước của Hồng Sến  được đưa vào nhân vật, khi ông để Ba Đô đi bắt rắn trên đồng. Người đàn ông to, khỏe, mạnh mẽ, nhanh nhạy như rái cá là một trong những phân đoạn đặc sắc.

Cảnh trữ tình và mang chất Hồng Sến, chất Nam bộ tiêu biểu nhất là cảnh vợ chồng Ba Đô và Sáu Xoa hết giận nhau, chèo thuyền tìm gọi nhau trên cánh đồng Tháp Mười lộng gió mênh mông lúa, hoa điên điển và các loài thủy sinh quấn quýt bên người trong những tiếng gọi âm vang đầy sức sống và yêu thương mãnh liệt như cả đất trời chỉ có đôi lứa ấy. Đây cũng là tác phẩm nổi trội của Hồng Sến mà nhờ đó, dấu ấn của ông đã đi vào lịch sử điện ảnh cách mạng Việt Nam.

Một đêm giáp Tết cách đây đã lâu, hồi Hồng Sến còn sống, dự liên hoan phim ở nước ngoài về, ghé thăm bạn bè làm phim tài liệu ở Hãng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương 465 (trước là số 72) Hoàng Hoa Thám, Hà Nội. Gần nửa đêm, cả bọn uống rượu say ở quán cụ Lý dốc Tam Đa. Quán không có gì nhắm, chỉ có mấy tràng pháo tết treo lủng lẳng. Sến uống say, cứ xong một tuần rượu lại đốt một tràng pháo đùng đùng đùng, giao hẹn không thằng nào được bỏ cuộc. Tôi sợ quá, lẻn ra ngoài quán, chạy lên đỉnh dốc.

Đêm khuya thanh vắng, nghe thấy tiếng dép bạch bạch bạch đuổi theo. Hồng Sến túm được tôi, dong trở lại quán trong tiếng pháo nổ đùng đùng. Tôi nhớ Hồng Sến, một giáp rồi đã thành người thiên cổ. Nhớ những ngày phiêu lãng trên đồng. Nhớ “đứa trẻ chăn trâu, con nhà giời” Đồng Đức Bốn (1948-2006) có tập thơ “Chăn trâu đốt lửa” (NXB Lao động, 1993) trong đó bài thơ nổi trội được nhiều người nhớ, cùng tên với nhan đề: Chăn trâu cắt cỏ trên đồng/ Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều/ Mải mê đuổi một cánh diều/ Củ khoai nướng để cả chiều thành tro…”.

Giờ thì tôi bất chấp tuổi 76, muốn tin bằng niềm mơ mộng trẻ thơ. Chỉ nghệ sĩ và ai yêu nghệ thuật mới giữ được những cánh đồng…